GIỚI THIỆU KINH
KINH TĂNG-GIÀ-LA-SÁT SỞ TẬP
Dẫn nhập:
Trong Hán tạng, kinh Tăng-già-la-sát sở tập (kinh do ngài Tăng-già-la-sát tập thành) là một bộ kinh đặc biệt, nội dung không phải do đức Thích Tôn thuyết mà như một tác phẩm lịch sử được biên soạn sau khi đức Phật nhập diệt 700 năm.
Trong lời Tự ngôn của bản kinh ghi rằng: “Ngài (Tăng-già-la-sát) trước tác ‘Hiến chương’ cho kinh này:
“Đức Thế Tôn từ lúc mới thành đạo cho đến khi chìm mất vào hư vô, sở hành không lớn nhở nhưng theo đó mà diễn bàn, từ việc du hóa đến chuyện tọa hạ an cư đều rõ ràng, đầy đủ. Tuy giáo lý hạnh nguyện chiếu soi, độ đời cùng khắp nhưng các kinh ghi chép đức Phật lúc đi, lúc ở vẫn chưa đủ. Nay xem kinh này sẽ được nhiều tỏ ngộ về sự truyền bá trọn vẹn.”
Kinh Tăng-già-la-sát sở tập còn có tên khác là kinh Tăng-già-la-sát sở tập Phật hành, Tăng-già-la-sát tập (Saṃgharakṣa-sañcaya-buddhacarita-sūtra), 3 quyển, do ngài Tăng-già-bạt-trừng (Saṃghabhūti, người nước Kế Tân [Kaśmīra]) dịch thời Phù Tần (350-394 sau Tây lịch), trong tạng Đại Chánh 4, số 194, trang 115.
Toát yếu nội dung kinh:
Quyển 1:
Nói về sự tu hành của đức Phật ở đời quá khứ, như lúc làm vua Tu-đà-ma giữ lời hứa bố thí châu báu cho người Ba-la-môn; làm thân voi, thân nai hiếu dưỡng cha mẹ; hóa thân Bồ-tát tu lục độ ba-la-mật như bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục….
Khi tu hành hạnh nhẫn, ngài làm vị tiên nhân Nhẫn nhục bị vua Ca-lam-phù chặt đứt tay chân nhưng không đau buồn, sân hận. Hành hạnh Bồ-tát giữ tâm kiên cố, theo A-lan-ca-lan tu khổ hạnh…
Lúc làm chim Anh vũ luôn biết ơn và đền ơn, khi khu rừng bị cháy, chim Anh vũ nhớ ơn những cây cối xung quanh mình đang sống, liền bay vào biển dùng đôi cánh lấy nước dập tắt lửa.
Bồ-tát tu từ tâm, lúc ngồi thiền trong rừng, có con chim làm tổ ấp trứng trên đầu ngài. Ngài thương tưởng ngồi bất động cho đến khi chim con nở và đủ lông cánh bay đi…
Bồ-tát từ cung trời Đâu-thuật giáng thần, thanh tịnh nhập thai mẹ, khi sanh ra cất chân đi bảy bước là hiện điềm lành của bảy giác ý…
Bồ-tát ra khỏi thành thề nguyện nếu không đắc đạo thì không trở về, ngài cởi bỏ y báu, giao ngựa cho Xa-nặc, lấy dao tự cắt râu tóc, lấy y báu đổi da nai làm ca-sa. Bồ-tát ngồi nơi đạo tràng chứng Nhất thiết trí, thành Đẳng chánh giác….
Quyển 2:
Nói sự tu chứng của đức Phật, chấm dứt sự sanh, hàng phục các ma, vượt qua sông tro (tro chỉ cho dục giác, khuể [sân] giác, hại giác; sông chỉ cho dục ái, sắc ái, vô sắc ái), thành tựu phước điền, chứng đắc tận trí (trí đoạn tận phiền não), đạt trí vô sanh (rõ các pháp không sanh) và miêu tả những tướng hảo của Phật: nhục kế, đầu, tóc, vầng trán, chân mày, mắt, mũi v.v… Còn nói cách đắp y của Phật, các tỳ-kheo khác không sao đắp giống được…
Lại tán thán đức Phật là chiếc thuyền cứu vớt chúng sanh, là mặt trời soi sáng ba đời v.v…
Quyển 3:
Thế Tôn độ Ương-quật-man (Ương-quật-ma-la), quỷ A-la-bà.
Điều-đạt (Đề-bà-đạt-đa) ở núi Kỳ-xà-quật lăng đá hại Phật, được quỷ Kim-tì-la đưa tay đỡ; giết Phật chưa được Điều-đạt lại cho voi Đàn-na-ba-la uống rượu rồi xua ra giết Phật…
Đức Phật độ vua A-xà-thế.
Đức Phật độ phạm chí Xà-đề-tô-ni, độ năm người bạn tu khổ hạnh trước đây.
Lại kể Tôn giả Ưu-ba-tư có người đệ tử tên Bát-ma-ca vào thôn xóm dâm nữ khất thực, bị một dâm nữ dùng chú thuật mê hoặc. Bát-ma-ca đã nhảy vào lửa tự vẫn để giữ phạm hạnh.
Lại tán thán ca ngợi đức Phật là bậc hùng sư tử trong loài người… Là nai chúa, tâm hoàn toàn không sợ hãi… Là đấng voi hùng đầy đủ trí tuệ…
Lại kể về Đại Ca-diếp siêng tu khổ hạnh, đắp y Tăng-già-lê cũ rách. Đức Phật khen ngợi đức tính ấy, và khuyên Ca-diếp nhận y cúng dường nhưng ngài không nhận.
Lại kể Tôn giả Xá-lợi-phất – Tôn giả Xá-lợi-phất nhập niết-bàn tại thôn Na-la-đà, đệ tử ngài là sa-di Quân-đầu mới đem y, bát của thầy mình về dâng cúng cho Thế Tôn và Tôn giả A-nan. A-nan hay tin rất đau buồn rồi bạch với đức Phật. Đức Phật dạy sa-di Quân-đầu đưa xá-lợi của ngài Xá-lợi-phất cho đức Phật xem, Phật dạy các Tỳ-kheo đảnh lễ xá-lợi của tôn giả Xá-lợi-phất. Đến lượt đức Phật cũng sắp xả bỏ tuổi thọ nên đại địa chấn động lớn. A-nan thấy chuyện lạ hỏi, đức Phật bảo: “Như Lai sắp nhập niết-bàn nên có điềm lành đó.”…
Cuối cùng tóm lược cuộc đời đức Phật:
Đức Thế Tôn ở nước Ba-la-nại chuyển pháp luân, an cư ở nước Ma-kiệt làm lợi ích cho quốc vương. Lần thứ hai, thứ ba và thứ tư Ngài thuyết pháp ở đỉnh Linh Thứu, lần thứ năm ở Tỳ-thư-ly. Lần thứ sáu, Ngài giảng cho mẫu thân nghe tại núi Ma-câu-la; lần thứ bảy tại cung trời Ba mươi ba. Lần thứ tám ở cõi quỷ thần, lần thứ chín ở nước Câu-khổ-tỳ. Lần thứ mười ở núi Chi-đề; lần thứ mười một lại giảng ở cõi quỷ thần. Lần thứ mười hai ở chỗ nhàn cư Ma-già-đà; lần thứ mười ba lại giảng ở cõi quỷ thần. Lần thứ mười bốn giảng ở vườn Kỳ-thọ Cấp Cô Độc, trong nước Xá-vệ. Lần thứ mười lăm ở trong thôn dòng họ Thích, nước Ca-duy-la-vệ; lần thứ mười sáu cũng thuyết ở Ca-duy-la-vệ. Lần thứ mười bảy ở thành La-duyệt; lần thứ mười tám cũng ở thành La-duyệt. Lần thứ mười chín trong núi Chá-lê. Lần thứ hai mươi an cư tại La-duyệt. Lần thứ hai mươi mốt lại ở núi Chá-lê, rồi ở cõi quỷ thần suốt bốn mùa an cư, không đi nơi khác. Và Ngài an cư ở Xá-vệ suốt 19 năm. An cư lần cuối ở thôn Tỳ-tướng, nước Bạt-kì.
Lại kể rằng, sau khi đức Phật nhập niết-bàn 100 năm thì ở thành La-lê xuất hiện một vị vua tên A-thúc (tức là vua A-dục) thông minh trí tuệ tuyệt đỉnh. Nhân một đêm nhà vua nằm mộng thấy có người mách bảo nên kính thờ xá-lợi Phật. Nhà vua mời các vị Tỳ-kheo đến hỏi. Các Tỳ-kheo khuyên vua lấy chánh pháp giáo dục, dạy dỗ. Vua A-dục mới thọ bát quan trai 8 ngày, mặc toàn vải trắng, đốt hương… tại thành La-duyệt mong được xá-lợi. Vua A-dục còn tìm được một quyển sách bằng vàng, tương truyền do vua A-xà-thế ghi chép lời huyền ký của đức Phật. Vua A-dục cùng quần thần đọc quyển sách ấy: “Trong thành La-duyệt, nước Ma-kiệt có một vị trưởng giả tên Ba-la-mật-đa-la, ông ta có người con trai tên Tỳ-xà-da-mật-đa-la. Người trưởng giả thứ hai tên Ba-tu-ba-đà-la, có người con trai tên Ba-tu-đạt-đa. Một hôm, hai đứa nhỏ đang chơi ở ngã tư thì Tỳ-xà-da-mật-đa-la thấy đức Phật, nó vui mừng bụm một nắm đất dâng cúng Phật… Sau khi đức Như Lai nhập niết-bàn 100 năm, Tỳ-xà-da-mật-đa-la sẽ xuất hiện ở thế gian, nhờ công đức lấy đất cúng dường cho Phật sẽ làm một vị vua tên A-thúc trong dòng tộc Một-da.”
Sau đó vua A-dục lấy xá-lợi của 7 tháp phân bố rộng rãi để hóa độ thế giới và cho xây 8 vạn 4 ngàn ngôi tháp hoàn thành trong một ngày…
Lời Kết:
Nếu ngược dòng thời gian để tìm lại cội nguồn và sự ra đời của bản kinh Tăng-già-la-sát sở tập thì không có gì nhọc nhằn khi chúng ta đọc vào lời tựa:
“Ngài Tăng-già-la-sát sinh ở nước Tu-lại, sau đức Phật nhập diệt 700 năm. Ngài xuất gia học đạo du hóa các nước, sau đến nước Kiền-đà-việt (Gandhāra) làm thầy của vua Chân-đà-kế-nị (Ca-nị-sắc-ca). Ngài là bậc cao minh tuyệt thế, có nhiều dịch thuật, trước tác. Tại nước đó, ngài còn tập thành kinh Tu hành, kinh Đại đạo địa. Ngài lại trước tác Hiến chương cho kinh này …”
Và sau này, nhiều học giả còn nghiên cứu, chứng minh thêm rằng: nếu kinh Đại đạo địa do ngài ngài Tăng-già-la-sát biên soạn, ngài An Thế Cao dịch vào thời Đông Hán thì niên đại ra đời của ngài Tăng-già-la-sát phải trước thế kỉ II Tây lịch. Như vậy kinh Tăng-già-la-sát sở tập có thể cũng xuất hiện trong thời gian đó.
Bản kinh này trong Hán tạng được xếp theo Bản duyên bộ, vì chủ điểm của kinh nói nhiều về chuyện tiền thân đức Phật. Thể loại truyện cổ tích này các kinh điển đều qui nạp thành Bản duyên bộ, gọi là Bản sinh kinh, hay Bản sinh đàm, một trong chín bộ kinh (hay mười hai bộ kinh). Như tạng Nam truyền có Bản sinh kinh (Jātaka) thuộc Tiểu bộ kinh (Khuddaka-nikāya). Về mặt giá trị tư tưởng và nội dung từ quyển 1, kể về những kiếp quá khứ xa xưa của đức Phật hóa thân qua nhiều hình tướng, thân phận, cho đến quyển 2, 3, tóm lược cuộc đời đức Phật, vân vân, thì các kinh sách đều có ghi chép, nhưng những nơi an cư suốt 45 năm sau khi Phật thành đạo mà trong “Tăng-già-la-sát sở tập” đã ký tải lại là một sử liệu có giá trị quan trọng, vì hầu như không thấy điển tịch nào nhắc đến. Theo truyền thuyết ghi lại, “thời vua Ca-nị-sắc-ca (Kaniṣka, ra đời vào thế kỉ thứ II Tây lịch), ba tạng kinh đã từng được giám định lại, những bản kinh nào không lưu truyền đều được viết chép, còn những bản đã lưu truyền thì được đối chiếu để kiểm xét, nhờ thế mà kinh tiếng Phạn mới được đầy đủ”. Vậy khi ngài Tăng-già-la-sát đến nước Kiền-đà-việt (Gandhāra) làm thầy vua Chân-đà-kế-nị (Ca-nị-sắc-ca), ở nước đó ngài tập thành Tu hành kinh, Đại đạo địa kinh, thì tác phẩm Tăng-già-la-sát sở tập do ngài biên soạn phải thuộc Phạn bản và sử liệu mà ngài ghi chép thời ấy đã được chứng minh là xác đáng. Sau đó, năm thứ 20 niên hiệu Kiến Nguyên (tl. 384), ngài Tăng-già-bạt-trừng cũng từ nước Kế Tân, mang kinh này đến Trường An, Thái thú Võ Oai là Triệu Văn Nghiệp xin phép xuất bản. Ngài Tăng-già-bạt-trừng và Phật Niệm phiên dịch, ngài Huệ Trung làm bút thọ (trách nhiệm viết ra văn Hán).
Ngài Tăng-già-la-sát đã để lại một tác phẩm có giá trị về sử liệu, cuối cuộc đời ngài trước khi thị tịch cũng là một chuyện lạ, trong lời tựa kinh Tăng-già-la-sát sở tập ghi:
“Tương truyền khi lâm chung, ngài phát thệ nguyện: ‘Nếu ta là bậc đại sĩ lập căn đắc lực, chân thật không hư dối, thì đứng dưới cây này, tay vin lá mà xả thân mạng. Cho dù sức mạnh của con voi lớn Na-la-diên cũng không di chuyển được ta, hoặc có trà-tì (hoả thiêu) cũng không đốt cháy lá cây này.’ Ngay khi ấy ngài đứng đó mà mất. Sau đó, đích thân vua Kế-nị (Ca-nị-sắc-ca) đến lay động nhưng không được. Vua dùng voi lớn kéo cũng bất động, dùng trà-tì cũng không thương tổn lá cây. Cuối cùng, ngài bay lên cung trời Đâu-thuật, đàm luận điều cao xa với ngài Di-lặc, rồi được bổ xứ làm vị Phật thứ tám trong kiếp Hiền.”
Thích Tâm Nhãn