Phật Việt hệ thống các tác phẩm nổi bật về chủ đề Giới Luật PG.
Trân trọng giới thiệu.
Tứ Phần Luật – HT. Thích Đỗng Minh – HT. Thích Tuệ Sỹ
THÍCH TÂM NHÃN: “Thời cận đại, nếu kể đến thế hệ thứ nhất truyền thừa luật Tứ phần có Hòa thượng Đôn Hậu (1905-1922), Hòa thượng có biên soạn Cách thức sám hối các tội, luật Tứ phần tỳ-kheo-ni… Thế hệ thứ hai là Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909-1984), những tác phẩm Hòa thượng trước tác và chủ biên: Luật tỳ-kheo – Tứ phần hiệp chú (1991) 2 tập, Yết-ma yếu chỉ, Nghi thức quy giới, Nghi thức truyền giới và bố-tát… (thế hệ này kể thêm, ngoài Bắc có Sư Cụ Bình Minh, trong Nam có Trưởng lão Thiện Hòa, Trưởng lão Hành Trụ). Thế hệ thứ ba là Hòa thượng Thích Đỗng Minh (1927-2005), do công trạng của Hòa thượng hoằng truyền và biên dịch luật học nhiều nhất nên mọi người xưng tụng là Tuyên luật sư. Hòa thượng dịch luật Tứ phần, Ngũ phần, Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da, …; trước tác Nghi thức truyền giới, “Tỳ-ni, sa-si, oai nghi cảnh sách văn vần”… Thế hệ thứ tư là Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ (1943-), ngài là người có công chấn hưng, truyền dạy luật học trước tình hình giềng mối Tăng-già rạn nứt trong xã hội đương thời. Ngài đã trùng biên, hiệu đính lại những bộ luật mà quý Hòa thượng dịch thuật trước đó như Tứ phần, Ngũ phần, Tứ phần hiệp chú, Yết-ma yếu chỉ… Và dịch thêm những phần Skandhaka (Kiền-độ) của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, như An cư sự, Xuất gia sự… Trước tác Du-già bồ-tát giới…
Đến đây chúng ta có thể kết luận, Hòa thượng Trí Thủ có công hoằng truyền tông luật Tứ phần của Pháp tạng bộ thời cận đại, Hòa thượng Đỗng Minh là người đầu tiên truyền dịch luật Ngũ phần của Hóa địa bộ, xem như dấu chân truyền giáo của hai bộ phái này có mặt tại Việt Nam, những người đệ tử cũng như học trò tiếp nối biên tập truyền dạy thì sự kế thừa đó sẽ tiếp diễn đến mai sau. Ví như sự tiếp nối của Hòa thượng Tuệ Sỹ, rồi hậu bối sẽ có người tiếp theo.”
—
Năm 2022, Tứ Phần Luật chính thức được biên tập và ấn hành trong Đại Tạng Kinh Việt Nam.
—
Bản giới thiệu ở đây là ấn bản năm 2020, thực hiện bởi Ban phiên dịch Pháp tạng PGVN & Nxb Hồng Đức, gồm 3 cuốn (Tập 1,2 & Tổng mục lục). Độc giả đăng ký sách có thể liên hệ với Phật Việt, hiện còn lưu giữ số lượng khiêm tốn.
TRÙNG TRỊ TỲ NI SỰ NGHĨA TẬP YẾU – Việt dịch: Sa-môn THÍCH ĐỔNG MlNH
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích
Việt dịch: Sa-môn THÍCH ĐỖNG MlNH
Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ĐỨC THẮNG
“Đã gần 50 năm qua, từ việc học tập, hành trì đến việc giảng dạy, dịch thuật nhiều bộ luật, song bộ Luật Trùng trị đã gắn bó với tôi một cách mật thiết, nó đã hằn sâu trong tôi, nó đã trở thành một bản thể của bản thể trong đời sống Bí-sô của tôi.
[…]
Kiến thức sâu rộng về Luật học là một lẽ, còn việc vận dụng vào đời sống thực tế vào việc hành trì là một lẽ khác, nhất là về mặt kiết giới và trị phạm, cần có sự linh hoạt và thực tiễn để Luật học không trở thành cứng nhắc.Do vậy, cần có sự vận dụng uyển chuyển theo sự phát triển của xã hội, song vẫn bảo đảm đúng pháp, đúng luật, đúng như lời Phật dạy. Nói khác hơn, phải nắm thật chắc mọi tinh hoa đã được tập thành trong Luật tạng để việc áp dụng không rơi vào lệch lạc và sự hành trì không vướng bận chi ly.
Ngài Hòa thượng Luật sư Thích Thiện Hòa đã tập thành được những tinh hoa ấy… Tôi đã trực tiếp học ở ngài các vấn đề quan yếu về Tác-Trì. Ngài đã chỉ ra tính cách sâu sắc của Luật học mà đằng sau nó là sự giải thoảt, điều sau cùng của một Tỳ-kheo phải đạt được.
Những điều tôi học hỏi nghiên cứu về bộ Luật Trùng trị là như thế. Tuy nhiên, những kiến thức có được về Luật chưa phải là đủ, và không biết bao giờ mới đủ được! Tôi tiếp tục học hỏi qua việc giảng dạy và dịch thuật Luật.
Về việc giảng dạy hay trong việc thuyết trình, tôi đã tham khảo nhiều bộ Luật, song căn bản vẫn lấy bộ Trùng trị làm tư liệu chính để soạn giáo án, cô đọng những vấn đề thiết yếu nhầm làm sáng tỏ phần giới bổn của bộ Luật. Đây là phần chính tôi giảng dạy cho các tân Tỳ-kheo sau mỗi kỳ Giới đàn tại Phật Học Viện Nha Trang hay gần đây tại trường Cơ Bản Phật Học Khánh Hòa.
Tôi cũng được sự chỉ định của Hòa thượng Thích Trí Thủ vào Sài Gòn dạy Luật cho lớp Cao Đẳng chuyên khoa tại Quảng Hương Già-Lam, cũng như tại Phật học Vạn Hạnh trong hai mùa an cư 1982 và 1983.”
Trích lời PHI LỘ, HT. Thích Đỗng Minh.
DU-GIÀ BỒ-TÁT GIỚI (bản sách phi lợi nhuận)
DUYÊN KHỞI
Lương Huệ vương trong lúc đang ngồi trên điện, chợt thấy lính dẫn một con bò đi qua. Trông thấy dáng điệu con bò nhớn nhác, sợ hãi, vua hỏi các quan:
– Dắt bò đi đâu?
Các quan tâu:
– Dẫn đi giết, lấy máu bôi chuông.
Vua khiến thả con bò đi, vì không nỡ thấy nó nhớn nhác như người vô tội bị dẫn đến chỗ chết. Các quan hỏi:
– Vậy bỏ lễ bôi chuông sao?
Vua phán:
– Sao lại bỏ? Đem con dê mà thế con bò.
Ông vua có lòng nhân, nhưng chỉ mới một nửa. Thả con bò, giết con dê, vì vua thấy con bò nhớn nhác sợ chết mà không thấy con dê cũng sẽ nhớn nhác sợ chết.
Dù vậy, chỉ bằng chừng ấy mà khi Thầy Mạnh Kha nghe được câu chuyện này, Thầy khen vua có lòng nhân, và khuyến khích vua nếu mở rộng lòng nhân ấy đến cho cả bá tánh, thì nghiệp bá của vua có thể thành vĩ đại.
Vua không nghe. Không những nghiệp lớn không thành, mà cuối cùng thân bại danh liệt. Nho gia phê bình Lương Huệ vương không chịu thực hành nhân chính như Mạnh Tử khuyên. Nhưng các sử gia, các nhà chính trị, chiến lược, không chỉ trích như vậy, mà phê bình chính sách đối ngoại của Huệ vương.
Cả lịch sử về sau, các triều đại vua chúa Trung quốc đều tôn thờ học thuyết chính trị của Khổng Mạnh, nhưng thực tế chẳng ai làm theo. Hầu như những bậc đế vương vĩ đại trong lịch sử loài người không xây dựng sự nghiệp trên lòng nhân, mà trên vũ lực, trên sự tàn bạo.
Dù vậy, trong lời khuyên của Thầy Mạnh có điều cho chúng ta suy nghĩ. Lòng nhân ái, mọi người đều có. Nếu biết cách nới rộng lòng nhân ấy thì có thể chinh phục cả thiên hạ. Nếu đây là chân lý, vậy điều quan trọng là làm thế nào để mở rộng lòng nhân ái ấy? Mọi người cho rằng nhân ái là bản tính tự nhiên, con người sinh ra là như vậy. Mở rộng, chỉ có nghĩa là đem nó ra mà tiếp đãi người và vật. Cũng không hơn gì con nai, hiền lành như vậy, và trọn đời cũng hiền lành như vậy. Khác nhau, con người có trí nên biết vận dụng lòng nhân, nai thì không.
Với người học Phật thì không như vậy. Nhân ái, nếu có sẵn – sinh đắc thiện, chỉ khởi đầu trong ta như đóm lửa nhỏ. Không giữ được, đương nhiên nó sẽ tắt. Thảng hoặc giữ được, nhưng không làm sao để nó cháy bùng lên được. Muốn thế, phải tu tập. Tu, tiếng Phạn nói là bhāvanā, làm cho ta trở thành khác hơn bây giờ, phát triển thành cao thượng hơn, càng lúc càng vĩ đại hơn. Từ và bi không phải là thiên tính trời phú cho sẵn, mặc dù trong tự tính thanh tịnh mọi chúng sinh đều hàm chứa đức từ bi, nhưng nếu không tu tập, không phát triển, nó không bao giờ lớn thêm, rộng thêm. Phật dạy bốn vô lượng tâm, không phải lý thuyết, mà là sự thực hành, có phương pháp, có tăng tiến.
Ông vua Lương có sẵn lòng nhân, nhưng Thầy Mạnh không chỉ dạy tu tập thế nào, làm thế nào để đức nhân ấy càng ngày càng lớn ra. Nếu không, chỉ ngần ấy đức nhân như của trời đâu cho sẵn mà đem ra thi thố, chẳng khác nào đem đốm lửa tro tàn ra đi sưởi ấm thiên hạ. Nó sẽ trở thành thủ đoạn chính trị, sách lược chinh phục nhân tâm bằng cái gọi là nhân nghĩa.
Các hiền triết nhân loại, từ đông sang tây, nói nhiều lắm về đức nhân, nhưng không một vị nào chỉ cách làm thế nào để cho đức nhân phát triển. Cũng không ai nghĩ rằng đức nhân ấy tự thể của nó lớn nhỏ như thế nào. Có lẽ cho đến ngày nay, khi các nhà thần kinh học hiếu sự đưa thầy lạt-ma vào máy MRI, người ta mới có thể khẳng định rằng ý thức về hạnh phúc của người khác, mong muốn người khác hạnh phúc, ý thức ấy có khác nhau giữa người tu luyện và không tu luyện, giữa người tu tập ít và người tu tập nhiều. Cho nên, khi nói rằng tâm từ bi của người này lớn hơn người kia, giá trị của phát biểu này có thể thấy được bằng hình ảnh.
Tu tập cho tâm từ bi càng lúc càng rộng lớn thêm lên, đó là thực hành Bồ-tát đạo.
ॐ
Chiến tranh kết thúc. Trên các ngả đường dẫn về quê, nhiều nhóm người nhếch nhác, thiểu não, kế tiếp nhau tìm về nhà cũ, làm lại sự sống. Khi trời xẩm tối, họ tìm một nơi nào đó, để có cái gì ăn, và một chỗ trống đủ để nằm.
Thiếu phụ ngồi trước hàng hiên, mơ hồ nhìn ra con đường vắng. Dáng người chinh phụ đang mỏi mòn trông ngóng. Anh đang ở đâu, sống hay chết? Nếu còn sống, thì trong đám tàn quân chiến bại kia, trong đoàn người thất thểu kia, hy vọng sẽ tìm thấy bóng dáng thân thương.
Chợt một bóng người xuất hiện trước cổng. Mắt cô chợt sáng lên, rồi tắt ngúm. Cô quay mặt nhìn sang hướng khác.
Người đàn ông im lặng đứng trước cổng, dợm nán lại,
dợm bỏ đi, vẻ ngần ngại chờ đợi một sự đáp ứng nào đó.
Cô hầu gái bước đến bên thiếu phụ, nói nhỏ:
– Thưa cô, trong lúc này có thể cậu nhà đang ghé vào nhà ai đó, mong có chỗ nghỉ qua đêm. Nếu chẳng may chủ nhà làm ngơ, vì không phải là người thân thích. Không biết rồi đêm này cậu sẽ ngủ ở đâu?
Thiếu phụ như chợt tỉnh ngộ, như hiểu ra một lẽ gì đó, bước vội ra cổng mời khách vào nhà.
Giúp người cũng chính là giúp mình. Chân lý hiển nhiên là như vậy. Nhưng thấy được chân lý đó bằng chính hạnh phúc và đau khổ của mình, thì không phải dễ.
Lòng nhân được định nghĩa rất đơn giản, Tây cũng vậy mà Hoa cũng vậy: Hãy làm cho người khác điều mà ta muốn người khác làm cho mình. Hay nói cách khác, “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân.”
Thấy điều ta muốn, tương đối dễ, nhưng làm sao để thấy được điều người khác muốn? Các tôn giáo xưa đều dạy đức nhân, nhưng khi giết con vật để lấy máu tế thần, không cảm thấy con vật sợ hãi, muốn sống. Lòng nhân ấy chỉ lan đến những gì phù hợp với điều ta muốn, ta nghĩ.
Song, điều cũng được thấy rõ, không biết đến người thì cũng không biết đến ta. Người chinh phụ kia không cần biết đến buồn khổ gì nơi người đang đứng trước mặt thì cô cũng không thể hiểu được người thân mình bây giờ đang cảm thấy buồn hay khổ ở nơi đâu. Học để hiểu vui buồn nơi ta từ đâu đến, cũng là học để hiểu vui khổ đến nơi người như thế nào. Đó là bước đầu để học tập ý nghĩa lợi tha.
Học tập lợi tha, bắt đầu từ bố thí. Cho, theo nghĩa tầm thường, nhiều khi rẻ rúng. Dâng hiến, theo nghĩa cao thượng, hướng thượng. Cho, hay dâng hiến, thảy đều mang cái gì ta đang có mà cho hay hiến cho người khác. Cho, mà không buông, không xả, không thành cho. Biết buông xả thì biết được bản chất của vật cho. Không biết giá trị của cái ta đang có – giá trị thời gian – cũng không thể biết thế nào là buông xả.
Thầy Mạnh khuyên vua Lương: Người xưa vì cùng vui với dân nên được vui. Đấy là thuật cai trị, là thủ đoạn chính trị, xảo thuật để chinh phục nhân tâm. Chinh phục để khống chế và ngự trị. Chỉ có vậy. Khi hỏi đến ý nghĩa sống chết, cho đó là viễn vông. Cứ sống trọn tuổi trời, không bịnh hoạn, không bị tai vạ, thế là đủ. Chinh phục thiên hạ, để ngự trị trên thiên hạ, thỏa mãn sự khuếch đại tự ngã của mình. Vẫn là hạng người “sống say chết mộng.”
Bồ-tát đạo bắt đầu từ chỗ biết cho. Cho vì lợi người để lợi mình. Không phải chỉ dừng lại ở đó. Cho để học tập buông xả, không phải buông thả con cá nhỏ để bắt con cá lớn. Buông xả cái ta đang có, để biết cái gì là ngã và cái gì là ngã sở, cái gì là ta và cái gì là của ta. Từ đó, để hiểu, ta là cái gì, ta là ai trong cái thế giới này – thế giới ấy thật hay chỉ là ảo ảnh?
Cho, thì ai cũng có thể làm được. Người ăn mày cùng khổ vẫn có cái để cho, ít nhất là chia cho kẻ khác nửa phần cơm khốn nạn của mình. Vậy thì ai cũng có thể học tập Bồ-tát đạo.
Bồ-tát đạo là gì? Con đường của những người khởi hành bằng nguyện bồ-đề.
Con bò vui vẻ bước theo chân người cho bó cỏ để đi đến lò sát sinh. Một người bị bịt mắt dẫn đi trong đêm tối, nếu không an phận vui vẻ như con bò kia, tất sẽ tự hỏi, ta đang ở đâu, đang được dẫn đi đâu, rồi tập trung ý nghĩ để phán đoán; người này có hy vọng và cơ may trốn thoát. Người có nguyện bồ-đề cũng vậy. Bồ-đề là trí năng tỉnh thức, là khả năng phán đoán thế giới của ta, thân và tâm của ta, cái gì thật, cái gì giả.
Khi mới bắt đầu, bồ-đề nguyện cũng chỉ là ý tưởng mơ hồ. Đứng dưới chân núi, thấy mây thấp trên đầu núi. Khung trời do vậy cũng chỉ thấp ngang đầu núi thôi. Rồi càng leo cao một bậc, mây lại cao thêm một lớp, và trời lại cao thêm một tầng. Lên cho đến đầu đỉnh núi, mới biết trời đất bao la.
Bồ-tát đạo là con đường của những người định hướng bằng bồ-đề nguyện, và bước đi bằng bồ-đề hành.
Người học đi, khi đã có thể đứng, có thể bước, bấy giờ điều cần học là biết cách tránh. Tránh những chướng ngại, tránh những chỗ lồi lõm, những chỗ gai góc, tránh không để trượt, té.
Hành bồ-đề cũng vậy, biết phòng hộ, biết vượt qua chướng ngại. Biết phòng hộ, có năng lực phòng hộ, để vượt qua những chướng ngại, đó là sự học tập bằng Bồ- tát giới.
Vì vậy, Bồ-tát Di-lặc kết tập Biệt giải thoát luật nghi của Bồ-tát để cho người học và hành Bồ-tát đạo biết đâu là tự thể phòng hộ và đâu là những chướng ngại của bồ-đề nguyện và bồ-đề hành.
ঔ
Tập sách này nguyên là tài liệu học Bồ-tát giới cho chúng Bồ-tát tại gia được giảng tại Quảng Hương già-lam, PL 2553. Văn bản chính làm sở y là “Giới phẩm” trong “Bồ- tát địa”, Du-già sư địa luận.
Tại Trung Hoa hiện hành hai hệ thống Bồ-tát giới riêng biệt: Bồ-tát giới Phạm võng, và hệ Du-già. Trong đó, về truyền thọ chính thức phổ biến là hệ Bồ-tát giới Phạm võng. Theo truyền thuyết, do Lương Võ đế là ông vua thọ Bồ-tát giới Phạm võng, cho nên hệ thống học giới này được thừa nhận là chính truyền. Thế nhưng, tìm trong tất cả điển tịch Phật giáo tại Ấn Độ, từ các văn bản Sanskrit mà ngày nay còn đọc được, và cả trong tất cả kinh và luận Đại thừa được phiên dịch trong Hán tạng, trong những trước tác của các Đại luận sư như Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân, không thấy ở đâu nhắc đến Bồ-tát giới Phạm võng. Đây là một điểm nạn vấn nan giải cho những nhà nghiên cứu Luật Đại thừa tại Trung Hoa.
Về Bồ-tát giới Du-già, đây là phần được trích từ “Giới phẩm” trong Bồ-tát địa. Bồ-tát địa là một bộ phận của luận Du-già sư địa, tác phẩm đồ sộ được phiên dịch đầy đủ bởi ngài Huyền Trang. Du-già sư, đúng nghĩa nếu dịch sát từ tiếng Sanskrit, phải nói là Du-già hành – Yogācāra. Gọi là du-già, chỉ cho nhận thức trực tiếp cảnh giới – hiện lượng du-già, không qua bất cứ sát-na suy lý nào. Hán dịch thay hành – ācāra – bằng sư – ācārya – là nhấn ý nghĩa truyền thừa. Cảnh giới chân thật được nhận thức bằng hiện lượng trí; y theo đó mà truyền dạy. Sư tức sư truyền. Nói Du-già sư địa, hay chính xác theo nguyên ngữ Sanskrit: Du-già hành địa, là các cấp bậc trực giác đối tượng, từ bậc phàm phu thấp nhất, hoàn toàn không có trình độ thiền định, cho đến cao nhất là các cấp bậc
Bồ-tát, và cuối cùng là Phật. “Bồ-tát địa” là phần quan trọng nhất của Du-già sư địa.
Các bộ phận khác bằng tiếng Sanskrit phần lớn thất lạc. Hiện còn lưu hành đầy đủ là phần Bồ-tát địa. Ấn bản devanāgarī được biên tập bởi Nalinaksha Dutt, xuất bản bởi Jayaswal Research Institut, 1966. Giới phẩm là chương thứ mười trong Bồ-tát địa – iti bodhisattva- bhūmāvādhāre yogasthāne daśaṃ śīlapaṭalam. Bản dịch Việt trong đây y theo bản devanāgarī, được phiên âm theo mẫu tự la-tinh, cùng với phân đoạn các tiết mục do người dịch, được in trong phần phụ lục để làm tài liệu tham khảo.
Bồ-tát địa, ngoài bản Hán dịch của Huyền Trang, còn có các bản dịch khác được thực hiện sớm hơn:
– Bồ-tát địa trì kinh, 10 quyển, Bắc Lương, Đàm-vô-sấm (Dharmarakṣa, dl. 385-433), dịch ở Cô-tàng. Đại chánh tập 30, số hiệu 1581. Giới phẩm, thuộc phẩm thứ 10.
– Bồ-tát thiện giới kinh, 9 quyển, Cầu-na-bạt-ma (Guṇavarma, người Kaśmira, đến Hoa năm dl. 431) dịch. Đại chánh tập 30, số hiệu 1582. Giới phẩm, thứ 11.
Về Bồ-tát giới, trong Śikṣasamuccaya (Hán dịch: Đại thừa Tập Bồ-tát học luận), Śāntideva (Tịch Thiên) trích dẫn rất nhiều đoạn văn nói là từ Bodhisattva-prātimokṣa- sūtra: Bồ-tát Biệt giải thoát giới kinh, hình thức Luật điển Bồ-tát tương đương với luật tỳ-kheo gọi là Biệt giải thoát giới kinh của tỳ-kheo. Những đoạn dẫn này không cho thấy có liên hệ gì đến luật Bồ-tát Phạm võng, cho thấy hình như Śāntideva hoàn toàn không biết đến có bộ luật của Bồ-tát gọi là Phạm võng.
Bản tiếng Sanskrit của bộ luật Bồ-tát này được biên tập
chỉnh lý bởi Nalinaksha Dutt, ấn hành bởi Calcutta Oriental Press, 1931. Nội dụng, đại bộ phận tương đồng với Giới phẩm trong Bồ-tát địa, thêm một vài chi tiết từ Upāliparipṛccha-sūtra (Ưu-ba-li vấn kinh).
Giới bản Bồ-tát đầu tiên được dịch Hán có thể nói là bởi Đàm-vô-sấm, nhan đề Bồ-tát giới bản, Đại chánh tập 24, số hiệu 1500. Xét nội dung, đây là phần trích Giới phẩm từ Bồ-tát địa, nhưng soạn thành nghi thức tụng giới của Bồ-tát. Bắt đầu bằng 4 bài tụng 4 câu, “Quy mạng Lô-xá- na…”, và tiếp theo là bốn ba-la-di, tức 4 tha thắng xứ trong Hán dịch của Huyền Trang.
Bản dịch Việt y theo bản Sanskrit trong Bodhisattva- bhūmi. Tham khảo chính là bản Hán dịch của Huyền Trang.
Về phần sớ giải, Hán tạng chỉ chú trọng hai bản:
– Du-già luận ký, 24 quyển, Tuần Luân; Đại chánh 42, số hiệu 1828; Giới phẩm được sớ giải trong một phần quyển 10.
– Du-già sư địa luận lược toản, 16 quyển, Khuy Cơ soạn, Đại chánh 43, số hiệu 1829; Giới phẩm thuộc một phần trong quyển 11.
Hai bản sớ giải này chủ yếu giải thích đại cương toàn bộ Du-già sư địa, cho nên giới phẩm cũng chỉ được đề cập sơ lược, đại phần là tóm tắt nội dung từng đoạn văn trong Luận chính.
Tham khảo chú giải trong bản Việt đại phần y theo Giới phẩm thích của Tsong-kha-pa.
Hệ Bồ-tát giới chính truyền tại Tây Tạng lấy Giới phẩm trong Bồ-tát địa làm sở y. Truyền thừa sớm nhất có thể từ Atisha, mà yếu chỉ được nói tóm tắt trong Bồ-đề đăng luận (Byaṅ-chub lam-gyi sgron-ma). Phần chính văn, phần Bồ-tát địa dịch từ Phạn sang Tạng bởi Prajñāvarma: Rnal-sbyor spyod-paḥi sa-las byaṅ-chub sems-dpaḥi sa. Giới phẩm đươc trích từ trong đó, Tsong-kha-pa viết chú giải Byaṅ-chub sems-dpaḥi tshul-khrims-kyi rnam-bśad. Hán dịch do Pháp sư Pháp Tôn, Bồ-tát giới phẩm thích, gọi tắt là Giới phẩm thích, ấn hành trong “Tông-khách-ba Đại sư toàn tập”, tập 5. Giới phẩm thích thường xuyên nhắc đến các sớ giải của Đức Quang (Guṇaprabha/ Tạng: Yon-tan ḥod, Byaṅ-chub sems-dpaḥi tshul-khrims-kyi leḥu bśad-pa, Bồ-tát giới phẩm chú sớ), và của Tối Thắng Tử (Jinaputra/Tạng: Rgyal-baḥi sras, Byaṅ-chub sems-dpaḥi tshul-khrims-kyi leḥuḥi rgya-cher ḥgrel-pa, Bồ-tát giới phẩm quảng chú). Cả hai vị này đều là Luận sư danh tiếng trong Du-già hành tông. Đức Quang chuyên tinh luật. Tối Thắng Tử được biết tại Trung Hoa là một trong 10 đại luận sư chú giải Thành duy thức.
Người giảng dù cố gắng vận dụng hết mức trí tuệ và biện tài cũng không thể nhất thời phát hiện những điểm tế nhị trong văn bản. Những điểm như vậy chỉ có thể hiểu được khi đối chiếu với thực tế hành trì. Văn luật cần phải chuẩn mực, để mỗi khi xúc sự, có thể y theo đó mà phân tích, lý giải hành vi, rồi mới nhận thức được hậu quả của hành vi ấy. Vì vậy, người học tập Bồ-tát giới cần phải có văn bản để thường xuyên tham khảo.
Kinh nghiệm khi đọc các bản dịch Hán cho thấy để đạt được bản dịch chuẩn của luật không phải dễ. Nhiều nhà chú giải y theo bản Hán, duy chỉ hiểu các từ luật theo nghĩa của Hán, nhiều khi dẫn đến những giải thích sai lầm. Thí dụ, từ luật nghi, từ vô tác giới thể, y theo nghĩa mặt Hán, không cần biết đây là những từ dịch ý hay dịch sát, do đó để lạc ý nghĩa chính, và kết quả là không làm cho người học hiểu rõ tự thể của luật nghi là gì, và hiệu lực thực tế của luật nghi là thế nào. Cho đến như từ giới cũng vậy. Y theo nghĩa mặt Hán mà giải thích là sự răn cấm, thành thử giới hạn ý nghĩa trong những cấm đoán mà hậu quả là dẫn đến chủ nghĩa hình thức, nhiều khi cực đoan đến khó chịu.
Vì vậy, cuối sách có phụ lục hai văn bản Phạn và Hán, để làm tài liệu tham khảo cho chư vị giảng luật, có sẵn mỗi khi thấy có điều chưa quyết hay chưa ổn trong bản dịch Việt.
Cầu nguyện tất cả cùng được lợi ích an lạc trong bồ-đề nguyện và bồ-đề hành.
Tuệ Sỹ cẩn chí
Sự Tích Giới Luật (Thích Nữ Trí Hải)
Nhà xuất bản: Hồng Đức
Tác giả: Thích Nữ Trí Hải
Bìa sách: bìa mềm
Khổ sách: 14.5 x 20.5cm
Số trang: 240
——————
DẪN NHẬP
Giới luật tỷ kheo ni gồm 348 giới điều, được gọi là “Ngũ thiên thất tụ”. Trước hết, “thất tụ” là bảy nhóm như sau:
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di
Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn
Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa
Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa
Nhóm 5: 8 pháp Hối quá
Nhóm 6: 100 pháp Chúng học
Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
Phân loại theo các việc cần phải cấm chỉ không được làm (chỉ trì) hoặc cần phải làm (tác trì) thì có bảy nhóm như trên, gọi là “Bảy tụ”, cũng như những chương, điều được nêu trong bộ luật hình sự ở đời. Những việc Phật cấm chỉ không được làm, nếu làm thì phạm, gọi là “chỉ trì tác phạm” như giới sát đạo dâm vọng v.v. Những việc Phật dạy phải làm không được bỏ qua, thì gọi là “tác trì chỉ phạm”, ví như những việc bố tát, tụng giới, yết ma, tự tứ, vân vân.
Nhưng phân loại theo tội phạm và mức độ xử phạt (tỉ như định mức án trong bộ luật hình sự ở đời) thì chỉ có năm mục, gọi là “Năm thiên” đáng nói, đó là:
Thiên 1: Tội ba la di, là khi phạm vào một trong tám pháp ba la di nói trên (nặng nhất). Mức xử phạt là đuổi ra khỏi chùa.
Thiên 2: Tội Tăng tàn, là khi phạm một trong 17 pháp Tăng tàn nói trên. Mức xử phạt là sám hối trước hai bộ đại tăng và hành sám một thời gian, bằng cách làm các việc do tăng chỉ định.
Thiên 3: Tội Ba dật đề, là khi phạm vào hai nhóm 3 và 4 nói trên. Mức hành sám ngang nhau, nhưng một bên có vật trình ra trước Tăng để xả (nói theo luật pháp ở đời là “có tang vật cần tịch thu”) rồi sám hối tội đáng đọa lạc, nên gọi là “Xả đọa”. Còn một bên không có tang vật, nhưng có những hậu quả xấu như mang tai tiếng cho đoàn thể hoặc gây thiệt hại cho người khác, gọi là pháp “Đọa” vì khiến cho người phạm rơi vào những ô nhiễm do tham sân hoặc do đam mê sáu trần cảnh, không đem lại giải thoát.
Thiên 4: Tội Thâu lan giá, là loại tội “non Ba la di già Tăng tàn” ví như trong pháp ba la di thứ tám, mà mới phạm có bảy việc, hoặc hai ba bốn việc; hoặc khi cố ý giết mà đối tượng chưa chết, hoặc âm mưu bại lộ, bất thành. Do vậy nên có ba cấp bực Thâu lan giá
Thiên 5: tội Đột cát la, nhẹ nhất nhưng dễ phạm, là khi vi phạm các pháp trong những thiên còn lại (5, 6, 7) gồm hai thứ: “ác tác” (làm bậy) và “ác thuyết” (nói bậy); tựa như loại tội “vi cảnh” trong luật đời.
Sự tích giới luật được viết sau khi tham khảo
1.Tỳ kheo ni giới, bản dịch của HT. Trí Quang.
2.Trung bộ kinh ba tập, bản dịch của HT. Minh Châu.
3.Bản dịch bộ “Tứ Phần Tỳ kheo ni Giới bản chú giải” hai tập của Ni sư Phật Oanh, (Thích Nữ Trí Hải dịch, 1975).
4.Bản dịch bộ “Luật Ngũ phần” 30 quyển, trong Đại tạng kinh (dịch giả Thích nữ Trí Hải, 1989).
5.”L’enseignement monastique du Petit Véhicule” bản dịch của Thích Nữ Tuệ Dung.
Điều đáng nói sau khi xem những sự tích này là, với “con mắt thông suốt ba cõi và tấm lòng nghĩ thấu ngàn đời”, đức Phật đã quán sát căn cơ hạ liệt của chúng sinh thời mạt pháp nên khiến ra co những vị làm hành vi quấy để cho ngài có dịp chế giới. Người đọc cần phải nghĩ nhớ thâm ân chư Phật bồ tát, không được có tâm phỉ báng như nói “thời Phật mà còn loạn thế”. Xét cho kỹ, ta vẫn thấy được yếu tố rất đáng kính và dễ thương nơi những vị “bồ tát nghịch hành” hiện tướng phạm giới này là, họ rất thật thà, không bao giời chối cãi hay biện hộ cho những việc quấy mình đã làm. Lại nữa, so với một tăng đoàn đông đảo gồm một ngàn hai trăm năm chục “toàn là những bậc đại a la hán” (được kể trong nhiều kinh) và nhiều vị khác chưa chứng đạo, thì con số hai mươi ba vị Tăng (Lục quần và Thập thất quần), và Nhóm 6 tỳ kheo ni “làm gương mẫu” cho sự phạm giới quả thực quá ít.
Trong nhiều bộ luật còn kể chuyện ngài Ưu ba cúc đa (Upagupta) xuất gia sau khi Phật nhập diệt không bao lâu. Lúc đó có một vị ni sống tới trên 120 tuổi, bà đã từng được trông thấy Phật và sinh hoạt của chúng tăng thời Phật. Ưu ba cúc đa xin bà kể cho ngài và một số tỷ kheo bạn hữu nghe về đời sống thanh tịnh của tăng già thời Phật, vì nghe ai cũng chê uy nghi tế hạnh của tăng chúng bây giờ thua xa thuở Phật còn tại thế. Ni bà hẹn với chúng tỷ kheo của Ưu ba cúc đa một buổi đến tư thất. Gần tới giờ hẹn, ni bà treo một bát dầu đầy trên đỉnh cánh cửa đi vào. Khi họ đã vào hết trong phòng và ngồi xuống xin ni bà kể về uy nghi tế hạnh của tỷ kheo thời Phật, Ni bà mở lời: “Vào thời Phật, trong chúng tăng có Lục quần tỷ kheo là những vị thường bị khiển trách là thiếu uy nghi nhất, nhưng vẫn còn có uy nghi tế hạnh hơn chúng tỷ kheo bây giờ nhiều lắm. Chẳng hạn, Lục quần tỷ kheo đẩy cửa đi vào phòng thì sẽ không làm đổ dầu như thế… (bà đưa tay chỉ ra cửa)”. Khi Ưu bà cúc đa và đại chúng nhìn theo tay Ni bà chỉ, họ mới trông thấy những giọt dầu rơi trên nền đất, cùng bát dầu đầy treo lửng lơ trên cánh cửa ra vào.
Mỗi giới điều được thâu tóm thành bốn chữ, chỉ cốt để giúp trí nhớ và học thuộc lòng. Muốn rõ nghĩa phải xem nội dung của giới điều và xem sự tích. Khi đọc sự tích, ta có thể thấy rõ nguyên do chế giới và mục tiêu mỗi giới, đồng thời cũng có thể thấy cái tinh thần nằm ở đằng sau chữ nghĩa, vượt trên chữ nghĩa và truyện tích. Có vậy mới thấy giới luật tuy nhiều mà rút lại không ngoài bốn chữ “thiểu dục tri túc” hay không ngoài hai chữ “tàm quý”. Và có vậy mới thấy 348 giới cũng không thấm gì, Phật dạy bao nhiêu cũng không đủ nếu ta chỉ hiểu trên ngôn từ mà không đạt ý. Do đấy mà có đến ba ngàn uy nghi tám vạn tế hạnh để kiện toàn một con người xứng đáng bậc “Chúng trung tôn”.
Yết-ma Yếu Chỉ (Phi lợi nhuận) – Tuệ Sỹ – Tái bản 2023
CỐ ĐẠI LÃO HT. THÍCH TRÍ THỦ: “Bộ luật này ra đời là do kết quả nhiều năm giảng dạy Luật cho Tăng chúng tại các Phật học viện: Báo Quốc, Hải Đức, Quảng Hương Già-lam. Nhưng sự biên tập được hoàn thành là do công đức đóng góp của các thầy ĐỖNG MINH và NGUYÊN CHỨNG. Hai vị đã cố gắng rất nhiều trong công việc ghi chép lại những điều tôi đã giảng giải, tham khảo các luật bộ, đối chiếu và thảo luận đả thông những điểm sai biệt giữa các luật bộ.
Ở đây tôi ghi nhận công đức đóng góp của hai vị và cùng hồi hướng công đức này cầu nguyện chánh pháp tồn tại lâu dài ở thế gian để lợi lạc hữu tình.”
NGHI TRUYỀN GIỚI – Hoà thượng Luật sư Thích Đỗng Minh tập thành
Tác phẩm này được trân trọng tái bản “nhân dịp kỷ niệm 19 năm (2005-2024), ngày Hòa thượng Luật sư quẩy dép về Tây.”
Hiện sách đã hết. Quý độc giả quan tâm muốn thỉnh xin điền phiếu khảo sát đăng ký cho lần tái bản sau:
Khởi Nguyên Văn Hiến Phật Giáo Và Luật Tạng Bộ Phái
Tác giả: E. Frauwallner
Tâm Nhãn dịch & chú
Bìa cứng
Sách dày: 323
Nhà xuất bản Đà Nẵng
Phát hành: Vu-lan, 2023
Giá bìa: 195.000đ
Ban phiên dịch Pháp tạng Phật giáo Việt Nam do cố Hòa thượng Tuyên luật sư Thích Đỗng Minh thành lập năm 2002, trung tâm hoạt động đặt tại Thiện xứ Long sơn, Nha Trang, Khánh Hòa (Việt Nam). Công trình phiên dịch gồm kinh, luật, luận trong tạng Đại chánh, tùng thư của đại sư Ấn Thuận, và những tác phẩm biệt hành có giá trị đóng góp cho Phật giáo. Sau khi Hòa thượng “treo bình Đông độ, quảy dép theo Tổ về Tây”, dưới sự cố vấn của thầy Tuệ Sỹ, các thành viên có thêm ý chí tiếp nối công trình di sản của Hòa thượng để lại. Người xây thành đã khó, người ở lại giữ thành cũng không phải dễ, trải qua bao thăng trầm và biến thiên trong cuộc sống đối diện xung quanh, Ban phiên dịch vẫn duy trì trong sự chậm chạp thử thách nhưng không bao giờ có dấu hiệu dừng lại.
Trong nhiều tác phẩm chúng tôi chuyển ngữ, có hai bộ sách mà chúng tôi dịch thuật gặp nhiều trắc trở bởi nội dung khó và ngoại duyên tác động. Đó là luật Thập tụng của Hữu bộ trong tạng Đại chánh và “Khởi nguyên văn hiến Phật giáo và Luật tạng bộ phái” của Erich Frauwallner. Luật Thập tụng dịch hơn 10 năm, tập thứ hai dịch 6 năm. Nay tác phẩm “Khởi nguyên văn hiến Phật giáo và Luật tạng bộ phái” đã hoàn tất, tôi muốn giới thiệu sơ lược lịch sử về quá trình chuyển ngữ cũng như giá trị tác phẩm đến quý độc giả biết thêm trước khi cầm nó trên tay.
________
mục lục
Tự ngôn
Lời tựa
Bảng chữ viết tắt
Chương I
Các Bộ Phái Phật Giáo Và Sứ Mệnh Truyền Giáo Thời Hoàng Đế Aśoka
Chương II
Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Và Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ
Chương III
Khởi Nguyên Thiên Skandhaka (Kiền-Độ)
Chương IV
Cấu Trúc Và Nội Dung Của Thiên Skandhaka Cổ
Chương V
Nguồn Tư Liệu Skandhaka Cổ Và Truyền Thống Phật Giáo Nguyên Thủy
Chương VI
Tiểu Sử Đức Phật Và Sự Khởi Đầu Lịch Sử Giáo Đoàn
Phật Giáo
Phụ lục
Truyền Thống Và Kết Cấu Các Bộ Luật Hiện Còn
Sách dẫn
Tài liệu tham chiếu của bản Việt dịch
Tài liệu tham chiếu của nguyên tác
Độc giả cần đăng ký sách có thể liên hệ hanhtue@phatviet.info hoặc https://www.facebook.com/DanVaoTueGiacPhat/