Khoảng năm 1984, một bài thơ được đăng trên một tờ báo Việt ngữ ở Orange County với tiêu đề “Con nước vô danh.”
Chúng ta cùng biết các dòng nước vẫn thường được đặt tên. Nếu là sông, thì sông ở Việt Nam, ở Trung Hoa, ở châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ… đều có tên. Nếu là suối, trên đường vào chùa Hương có suối Yến, Bạch Cư Dị có bài thơ về suối Bạch Vân (Bạch Vân tuyền). Nếu là kênh (kinh), thì ở miền Nam có kênh Vĩnh Tế, kênh Xáng, các kênh Chợ Gạo, Tàu Hủ, Ruột Ngựa… Nếu là rạch (nhỏ hơn), chúng ta cũng biết có rạch Miễu, rạch Bà Chiểu (ở Sài gòn), rạch Vọp (ở Sóc Trang), v.v…

Nhưng con nước này trong bài thơ này nhỏ, chưa hề được đặt tên, chỉ là một con nước “vô danh.”
Trong bài thơ có những câu như sau:
Trong đêm thầm gọi nhỏ
Nghiêng ngả ly rượu cay
Cánh chim nào trong gió
Như mười năm vèo bay.
Từ khi miền Nam sụp đổ năm 1975 tới thời điểm đó (1984) được gần 10 năm. Có thể tác giả đã viết “mười năm” theo nghĩa tương đối, không nhất thiết thật chính xác. Nhưng cũng có thể tác giả muốn nói đến một số chuyện từ trước năm 1975:
Mười năm trôi trôi giạt
Nhìn cơn mưa đổ dài
Tìm nhau nơi quán chợ
Mắt trắng dã trần ai.
“Ở giữa chợ chỉ thấy nhân gian mắt trắng” thực ra không phải là một ý mới. Nguyễn Bính từng viết từ giữa thập niên 1940:
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà người cả tiếng cười.
Nhưng trong khi Nguyễn Bính khinh thế ngạo vật, ngồi uống rượu tới say ở giữa chợ rồi “cả cười” chê thế nhân mắt trắng, thì tác giả buồn và cô đơn, đi tìm tri âm ở giữa nơi đông đúc nhất nhưng không tìm được ai. Tác giả hiền và cô đơn hơn, chỉ buồn chứ không “ngạo nghễ” với ai.
Trong bài thơ còn những câu như:
Ngồi thì thầm chuyện cũ
Giọt nước mắt đêm thâu
Hợp tan như mây nổi
Chập chùng hồn biển dâu.
và:
Núi đồi câm nín cả
Ta một mình đọc thơ.
Tên tác giả được in dưới bài thơ: Trịnh Y Thư.
Sau khi báo in ra, có một người đọc bài thơ, giật mình xúc động, đọc đi đọc lại, rồi tìm cách liên lạc với tòa báo để hỏi xin tên thật và địa chỉ của tác giả. Hơn 40 năm trước, ít nhất với người đọc thơ ấy, “Trịnh Y Thư” là một danh hiệu mới. Sau khi hỏi xin được địa chỉ, người đọc thơ lái xe đi tìm tác giả, rồi sau khi tìm được, chỉ để nói rằng, “Bài thơ của anh truyền cảm quá,” và nói lên sự quý trọng của mình. Từ đó bắt đầu một tình bạn, tới nay đã hơn 40 năm.
Từ 1984 tới 2025, “Con nước vô danh” đã trở thành một con sông lớn, một trường giang, đại giang nổi danh. Từ một ít bài thơ đầu thập niên 1980, Trịnh Y Thư đã để lại cho chúng ta một văn nghiệp đáng nể trọng, với một tập truyện và một tập tạp bút được in lại nhiều lần, một tập thơ, một bộ tiểu thuyết với cấu tạo rất mới, hai tập tạp luận cùng có giá trị cao. Anh cũng cung cấp nhiều bản dịch xuất sắc, có giá trị lâu dài cho nhiều tác giả quan trọng của văn học thế giới, tác giả người Pháp gốc Tiệp, tác giả Anh… Các dịch phẩm này được in đi in lại nhiều lần ở cả trong nước lẫn ngoài nước. Anh còn dấn thân, đứng ra gánh vác một tạp chí văn học rồi một cơ sở xuất bản văn học có uy tín ở ngoài nước, và hiện đang lãnh trách nhiệm về một trang Web có tầm vóc lớn về văn chương, văn học với ảnh hưởng rất đáng kể ở cả trong nước lẫn ngoài nước. Ngoài những công việc ấy, anh còn là biên tập viên cho một tờ báo lớn của cộng đồng người Việt ở Nam California. Với tâm hồn nghệ sĩ và vô cùng tài hoa, anh còn là môt cầm thủ guitare cổ điển lỗi lạc. Anh cũng sáng tác nhạc với nhiều tấu khúc cho piano, guitare, và một ít ca khúc lời Việt.
Theo nhận xét của người bạn trẻ ở San Diego, “Những trang sách của Trịnh Y Thư không những có thể giúp người đọc ‘luyện chí’ mà còn khiến trái tim người đọc mềm lại, tỉnh lại, và rung cảm để nhận biết giây phút bình an của hiện tại và nhớ đến nhiều người khác đang cùng vạn vật muôn loài chống chọi với những gian nan đến từ sự cuồng nộ không thể tránh được của đất trời.”
Nhân dịp phát hành Theo Dấu Thư Hương II, anh bạn trẻ ấy viết rằng, “Đây cũng là dịp để chúng ta bày tỏ lòng biết ơn của mình đến nhà văn Trịnh Y Thư vì những đóng góp miệt mài và quý giá của ông trong lãnh vực sáng tác văn học. Trịnh Y Thư là một trong những nhà văn, thi sĩ, và dịch giả có những tác phẩm rất giá trị với thời gian.”
Đó cũng là những nhận thức của người viết những dòng này khi đọc lại các tác phẩm của Trịnh Y Thư. Tôi rất tâm đắc với đoạn sau đây trong “Lời ngỏ” cuốn Theo Dấu Thu Hương II:
“Sự cô đơn của việc đọc sách trở thành chất xúc tác cho việc định hình và tái định hình đời sống nội tâm. Đọc sách cũng khiến bật lên những khía cạnh triết học, đặc biệt là sách văn học và triết học, bởi nó giúp chúng ta tiếp cận với những câu hỏi hiện sinh như cái chết, ý nghĩa cuộc sống, tình yêu, sự vong thân. Tính cách đối đầu này chỉ có thể xảy ra trong một tâm trạng quán chiếu cô đơn; nhưng nó giúp ta đối mặt không phải trong tuyệt vọng, mà trong sự thấu hiểu lẫn nhau. Tóm lại, như môt thái độ đối với sự cô đơn, không phải đối đầu lại mà hòa nhâp vào, đọc sách không chỉ là hành động đơn độc mà là cách sống trong cô đơn một cách có ý nghĩa. Nó biến cô đơn thành kết nối, dửng dung thành suy ngẫm, và im lặng thành đối thọai.”
Mời đọc toàn bài tâm tình của Giáo Sư Trần Huy Bích: https://vietbao.com/a323999/phat-bieu-nhan-dip-gioi-thieu-cuon-theo-dau-thu-huong-ii-cua-trinh-y-thu

