Cố Huynh Trưởng Nguyên Hùng Võ Đình Cường | Ảnh: Người Áo Lam
Bài viết Ta Với Ta của giáo sư Cao Huy Thuần viết để tưởng niệm anh Võ Đình Cường kể lại câu chuyện hội ngộ giữa những người con Phật tại chùa Trúc Lâm, Paris khi anh cùng đoàn Phật giáo Việt Nam sang thăm Pháp Quốc
Thuở 1948-50, lúc tôi bắt đầu “quay một vòng hát mà chơi” trong gia đình Phật tử, anh Võ đình Cường đã cho xuất bản quyển Ánh Đạo Vàng mà thiếu niên chúng tôi hồi đó đều say mê. Từ đó đến nay, dù chẳng khi nào ở gần anh, tôi lúc nào cũng có cảm tưởng như anh em cùng sống với nhau dưới cùng một mái nhà- một mái chùa. Vì vậy, lúc thầy Thiện Châu đề nghị tôi làm chủ tọa để tiếp anh Cường trong buổi hội ngộ hôm nay, tôi vừa hân hạnh lại vừa bỡ ngỡ? Tại sao tôi lại phải “tiếp” anh Cường? Tôi là chủ, anh Cường là khách? Tôi là “chủ tọa”, anh Cường là “khách tọa”? Rốt cuộc, cả anh và tôi đều là chủ tọa, và điều đó gợi đề tài cho bài mở đầu của tôi. Tôi sẽ nói lăng nhăng về hai chữ khách, chủ.
Tự xét mình, tôi chưa bao giờ là chủ của một cái gì, kể cả cuộc đời của tôi, kể cả thân xác của tôi. Tôi muốn tóc cứ xanh, nó cứ bạc. Tôi muốn ngủ, mắt không muốn nhắm. Tôi đâu nghĩ có ngày phải sống xa nước, vậy mà rồi cũng bèo dạt mây trôi. Luật Việt Nam ngày xưa bảo tôi là chủ gia đình. Có ai trên đời này dám vỗ ngực xưng mình là chủ của bà vợ? Vay nợ để mua nhà, tôi là chủ của cái nhà, hay cái nhà là chủ của tôi? Buồn, vui, thương, yêu, giận ghét, cứ đến cứ đi, có thể xin phép gì tôi đâu? Tổng Đốc Hoàng Diệu thắt cổ tự tử khi Hà Nội thất thủ, ông là chủ của cái cổ hay quan niệm về danh dự là chủ của chiếc dây? Ý nghĩ mà tôi đang nói ra đây, tôi đang làm chủ nó hay nó đã bắt đầu đưa đẩy tôi đi đến chỗ nào tôi chưa biết? Không ai là chủ của một cái gì cả, vì lẽ giản dị không có cái gì là khách.
Anh Cường là khách của tôi? Còn lâu! Khi anh bước chân vào chùa này, khi anh nhìn thấy Phật, tôi cam đoan anh không nghĩ anh là khách. Làm sao anh là khách của Phật! Rất nhiều người trong chúng ta, nếu không muốn nói là tất cả, khi đặt chân lên đất nước của chính mình, bỗng thấy mình là khách. Từ cái hộ chiếu phải cầm, cho đến cách đối xử trong việc ăn ở, đi lại, giao tế, tất cả đều dồn chúng ta đến cái cảm giác lạ lùng rằng mình là khách. Nhưng sức mấy mà tôi là khách đối với đất nước tôi! Khi tôi mở cửa sổ và bất chợt thấy “nắng hàng cau nắng mới lên”, có cắt lưỡi, tôi cũng phải nói rằng tôi không là khách của ông Hàn Mạc Tử. Tôi không là khách của con trăng treo lơ lửng trên đầu ngọn tre; tôi đang thầm thì nói với nó, cũng như tôi đang thầm thì nói với tiếng giọt mưa rơi trên tàu lá chuối: “em đã là tôi tự thuở nào”.
Mà tôi cũng không phải là khách của nước Pháp, của nước Mỹ. Thời 1973-74, lần đầu tiên tôi đến nước Mỹ, giữa lúc chiến tranh quyết liệt, sắp đến hồi kết thúc. Tôi đến thăm một trường đại học để hô hào chống chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, và tôi thấy gì? Một cái chuồng cọp, y hệt cái chuồng cọp ở Côn Đảo, với các cậu sinh viên thay phiên nhau ngồi chồm hổm trong đó. Tôi là khách sao được của những tình cảm thắm thiết kia? Không người trí thức nào thuộc thế hệ anh Cường nói mình là khách của vườn Luxembourg khi lần đầu tiên nhìn lá vàng rơi trên những pho tượng trắng. Không có chủ, không có khách, bởi vì chủ hay khách là tự trong lòng, chỉ một khoé môi là chủ thoắt biến thành khách, chỉ một ánh mắt là khách vụt trở thành chủ. Cũng anh Thúc Sinh đó thôi, nhưng khi “trăm nghìn đổ một trận cười như chơi” thì là quen, mà khi đờ mặt ra nghe Kiều đàn với bà Hoạn Thư thì người đâu mà lạ thế!
Ngày trước, tôi thường hay bâng khuâng với hai chữ “nhị hỷ” trong truyền thống cưới hỏi của chúng ta. Đưa dâu là ngày hôm trước, đưa vợ mới cưới về thăm nhà cha mẹ là nhị hỷ hôm sau. Nhị hỷ là nỗi vui thứ hai; thế thì nỗi vui thứ nhất hẳn là ngày cưới. Thế mà có người con gái nào không khóc sướt mướt khi lên xe hoa! “Khấp như thiếu nữ vu quy nhật”, đố ai biết nước mắt đó buồn hay vui. Có người bị ép uổng, khóc đã đành. Các cô gái trong Nguyễn Bính đâu có lên xe hoa, chỉ qua đò, sang ngang. Cách một con sông, trời ơi, chỉ còn có cái cửa sau để ngóng về quê mẹ. Nhưng có người vui cũng khóc. Khóc vì tình cảm khách chủ ngổn ngang. Ra đi, bỗng nhiên là khách, khách của tất cả những gì đã tạo ra mình, từ cái mái nhà, mái hiên, đứa em út đang ngẩn ngơ nhìn chị cho đến con chó đang ngoe nguẩy đuôi. Có phải nhị hỷ là để khách ngày hôm qua trở lại là chủ của ngày hôm sau? Đố ai nói được! Khi cô dâu hôm trước bước vào nhà, đứa em gái đã thay chiếc khăn nơi giường của chị. Nó đã xoay lại chiếc bàn học, cắm một đóa hoa, làm dỏm một bức rèm. Cha mẹ cô mừng rỡ, nhưng trong dáng tiếp con không phải như mừng con đi học về ngày hôm qua. Có một cái gì lạ trong tất cả những cái đều quen. Ấy, đứa em gái vừa rót mời chị một ly nước. Sao bây giờ nó bỗng rót nước mời chị! Đưa dâu, chưa hẳn là ra đi vì trong lòng người con gái chưa rời được nhà cũ. Nhị hỷ, lúc trở về, đó mới là lúc người con gái thấy mình đã cất bước, con chim đã rời tổ.
Những chuyện lăng nhăng, vớ vẩn như vậy trong đời đã đưa tôi vào đạo Phật lúc nào không hay. Người con gái trở về nhị hỷ là khách thật chăng? Không hẳn. Là chủ chăng? Cũng không. Anh Cường không phải là khách, không phải là chủ. Tôi đối với tấm thân này của tôi, đối với cuộc đời của tôi cũng thế. Không có cái gì là một, không có cái gì là hai. Nhìn một sẽ không thấy hai. Nhìn hai sẽ không thấy một. Phật dạy cho tôi sự biết rốt ráo, vượt lên trên một, vượt lên trên hai. Có lẽ chỉ có con cú, con chuột chù mới chỉ thấy đêm, không thấy ngày. Có lẽ chỉ có anh triết gia gàn ngày xưa mới thắp đuốc đi chơi đêm để nuôi ảo tưởng chỉ có ngày, không có đêm. Thói thường, ai cũng biết rằng mọi sự vật ở trong đời đều có đôi, có cặp: ngày đêm, tả hữu, cao thấp, trên dưới, lạnh nóng, xa gần, tĩnh động… Từ đó, trong ý niệm cũng nảy sinh ra từng cặp, từng đôi: vui buồn, thương ghét, âm dương, thiên đường địa ngục, tâm vật, và rắc rối hơn nữa duy vật duy tâm. Nhưng có ai là khách của ai đâu? Không có thấp, làm gì có ý niệm về cao; không có xa, biết thế nào là gần? Bao nhiêu triết gia đã thử định nghĩa thế nào là vui, nhưng đố ai biết vui là gì nếu không có buồn, đố ai biết thiện là gì nếu không có ác? Ông Mạnh Tử bảo: tính người là thiện: thế thì thiện là gì chứ? Ông Tuân Tử bảo: tính người là ác; thế thì thiện là khách?
Mỗi lần ăn một bát phở ngon, tôi thấy Phật. Thấy thực sự, rành rành trước mắt, chứ không phải chỉ thấy qua triết lý, tôn giáo. Tôi thấy Phật từ từ đi ra bờ sông, tôi thấy Phật nhúng mình trong nước, tôi thấy Phật đi lên bờ, ngồi dưới gốc cây. Và đẹp quá, tôi thấy cô thiếu nữ mặc áo xanh thắm kính cẩn dâng lên Phật một bát cháo náo với sữa và mật của hoa rừng. Chưa bao giờ Phật nếm một thức ăn ngon như vậy sau sáu năm tu khổ hạnh trong rừng già. Bát cháo làm Phật hồi sinh. Phật ngồi nghỉ, rồi Phật đứng dậy, đi qua bờ bên kia sông, ngồi dưới gốc cây bồ đề. Tất cả triết lý của Ấn Độ thời ấy nhắm vào việc chế ngự thân xác để làm sáng ra sức mạnh siêu nhiên của tâm linh. Thân này là khách, tâm linh kia mới là chủ. Đuổi khách đi thì người chủ mới làm chủ trọng ngôi nhà. Bát cháo của cô thiếu nữ đã làm tan biến ý niệm khách chủ giữa thân xác với tâm linh. Cũng vậy, tôi ăn bát phở và tôi thấy khoan khoái cả trong dạ dày lẫn trong tư tưởng. Cũng như khi tôi nhìn thấy đóa hoa hồng trong vườn: không phải chỉ mắt mũi tôi ngây ngất với sắc hương, cả tâm linh của tôi phơi phới.
Kinh và chuyện thiền đã mang lại cho tôi cả một kho tàng hình ảnh, ẩn dụ để khước ý niệm khách chủ, một hai. Trên đầu ngọn núi cao ngất kia, mây trắng kết thành một vòng. Cái hình ảnh đẹp trước mắt là đỉnh núi với vòng mây. Trong cái trực nhận đầu tiên về cái đẹp, trong một thoáng rất nhanh mà cảm quan bắt chợt được cái đẹp như là cái đẹp, đâu có sự phân biệt đây là núi, đó là mây. Hai bàn tay vỗ vào nhau đánh bộp. Bàn tay trái bảo: tiếng bộp đó là tao. Đâu phải! Bàn tay mặt bảo: là tao, không phải mày. Đâu phải! Là hai bàn tay chăng? Sai nốt ! Bằng chứng là nếu tôi đặt lòng bàn tay này lên lòng bàn tay kia mà không vỗ thì chẳng nghe tiếng bộp nào. Thế thì tiếng bộp đó là do sự vỗ chăng? Có tất cả trong tiếng bộp, nghĩa là có một, có hai, có nhiều, có vô vàn yếu tố. Bồ Đề Đạt Ma đã nói một câu tuyệt vời: “muốn thấy cá phải nhìn nước”. Chỉ cần chiêm nghiệm một câu đó thôi, là thấy cả chân lý và phong thái sống trong đời. Thấy cá là thấy một, thấy nước là thấy một. Thấy hai cũng trật, mà thấy một cũng sai. Cho nên tất cả lý thuyết nào nói rằng do một mà sinh ra tất cả, tôi cười. Không có một ông thượng đế nào sinh ra vạn vật. Tôi sống trong cuộc đời không đóng đinh chữ một vào óc. Tôi không quỳ lạy trước Một, cho nên tôi tan hòa trong Tất Cả. Mà làm sao tôi thấy Một được khi ngây ngất với đóa hoa hồng của tôi? Màu hồng thắm nơi cánh hoa do đâu mà có? Nếu cánh hoa khoe rằng nó là chủ của sắc màu thì mặt trời sẽ giận: không có ánh nắng, hoa lấy sắc thắm ở đâu? Nếu mặt trời đắc thắng vỗ ngực bảo nó là chủ của màu hồng, thì hạt mua sẽ không bằng lòng: không có mưa làm gì có hoa? Nhưng ai dám bảo mưa là chủ: không có mây làm gì có mưa? Tất cả vạn vật sẽ đi kiện nhau, nếu ai cũng cho mình là chủ: sông nước kiện mây, bởi vì không có hơi nước thì làm gì có mây: không khí chuyển động kiện hơi nước, bởi vì hơi nước làm sao bốc lên trời được nếu không có chuyển động không khí?
Trong chuỗi kiện cáo liên miên bất tận không đầu không đuôi đó, nếu có một ông thượng đế tự đứng ra làm quan tòa tối cao để phân xử và cười khà phán rằng ta đây mới thật là chủ, thì vụ kiện vẫn chưa yên đâu, bởi vì có kẻ sẽ đứng ra kiện ông thượng đế: kẻ đó là tôi. Tôi kiện, vì nếu không có tôi thì làm gì có ông? Không có tôi run sợ, khép nép, làm gì có ông là giải pháp tối cao? Tôi là chủ, ông là khách. Lịch sử ở phương Tây này có gì khác nhau đâu là lịch sử kiện cáo giữa con người với ông. Có nhiều lúc con người ngạo nghễ: “thượng đế chết rồi!” Có lúc ông hát khải hoàn ca: “Thượng đế phục thù!” Thế thì ông là chủ, người là khách? Tôi thấy quan hệ đấu tranh giữa con người với ông ở phương Tây này mệt quá, trong đóa hoa hồng trong vườn tôi bình yên nở cánh. Mời ông xem, nơi nó có tất cả vạn vật, và tất cả vạn vật tụ lại trên nó. Nó không là chủ của ai, không ai là chủ của nó, mà cũng không ai là chủ của ai.
Vứt hết ý niệm một, vứt hết ý niệm hai, vứt luôn cả ý niệm vừa một vừa hai, vứt hết, rồi hãy tưởng tượng mà xem: không có sự giao tế nào đẹp hơn giữa người với người, bởi vì ai cũng là chủ và không ai là khách. Đó là sự giao tế giữa trăng với nước. Trăng lên, và nước không mời, trăng cũng đến chơi, trăng là nhà của nước, nước là nhà của trăng, nước xao thì trăng vỡ, nước lặng trăng tròn. Ném hòn sỏi xuống nước, một tia nước rơi vào lá cỏ: trong hạt nước đọng trên lá vẫn có nước. Trăng nhởn nhơ trong nước, nhưng trăng không ướt; về khuya, nước cũng không làm trăng lạnh.
Anh Cường đến chơi với chúng ta, áo anh khô và người anh ấm. Tiếp anh, tôi xin đọc một bài thơ mà chúng ta đã học từ thuở lớp nhì, lớp nhất. Thuở ấy, thầy giáo cắt nghĩa cho tôi khác, bây giờ tôi hiểu với một tinh thần khác. Tôi lăng nhăng nói trăng nói cuội nãy giờ cũng chỉ để đọc bài thơ kia với tinh thần này mà thôi. Bài thơ của Nguyễn Khuyến mà ai cũng thuộc:
Đã bấy lâu nay bác đến nhà
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa
Ao sâu lưới cạn khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà
Cải chửa ra hoa cà chửa nụ
Bầu vừa rụng rốn mướp đang hoa
Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta
Nguyễn Khuyến là nhà nho, chưa chắc ông đã thông Hoa Nghiêm với Bát Nhã. Nhưng bài thơ là một chữ Không láu lỉnh trong một chứ Có tài tình. Là chủ, ông vứt hết tất cả những gì khiến ông là chủ, khiến bạn là khách, vứt hết ý niệm tiếp đãi, lễ tân, khiến đó là đó, đây là đây. Trẻ con, chợ búa, cá mú, gà lợn, cải cà, bầu bí, cau trầu, càng lo lắng chu toàn những phiền hà đó bao nhiêu thì khoảng cách khách chủ càng xa bấy nhiêu. Tiếp bạn đâu không thấy, chỉ thấy xa bạn, bạn chưa đến mà đã ra đi rồi. Vức khoảng cách đi thì chẳng còn ai tiếp ai nữa, chỉ thấy phơi phới ta với ta, chẳng biết ta nào là ta nào, hai ta đấy chăng hay chỉ một ta hóa hai, hai ta nhập một. Tinh túy của Lão Trang bắt chợt gặp tinh túy của Thiền: vứt đi hết để đến cái rỗng không thì thấy được cái tự nhiên trong đó con người ung dung, thảnh thơi, tiêu dao, phóng khoáng, rong chơi như gió thổi qua nhà trống.
Tôi xin chắp tay nhờ các bậc cao minh chỉ giáo cho tôi hướng đi của Phật Giáo vào thế kỷ mới. Riêng tôi, tôi không mơ tưởng chuyện lớn; tôi ước ao sống với Phật trong từng chuyện vặt. Chuyện anh Cường đến chơi. Chuyện bài thơ Nguyễn Khuyến. Tôi thấy chuyện vặt nhiều khi làm tôi gần Phật hơn là đại ngôn. Từ ba chữ ta với ta của ông Nguyễn Khuyến chẳng hạn, tôi suy ra được khối chuyện. Ví dụ: hãy “ta với ta” trước hết với ta. Trong cuộc sống cam go giữa xã hội phiền toái này, tôi không phải chỉ một tôi mà trăm ngàn tôi, nghĩa là trăm ngàn cái lưng, trăm ngàn cái lưỡi, trăm ngàn nụ cười ruồi. Cười trung cười nịnh một hồi, riết rồi tôi biến thành tôi của người, không thấy đâu nữa tôi của tôi. Đối với chính tôi, tôi đã là khách rồi, làm sao tôi khỏi là khách đối với anh Cường ? Anh Cường cũng vậy, anh đã là khách của anh, làm sao anh khỏi là khách đối với tôi? Và cứ như vậy, chúng ta chỉ là khách của mình và khách của nhau; ngồi ở đây chỉ toàn là khách với khách. Khách với khách bàn chuyện “phát triển Phật Giáo”, hoá chẳng phải là bàn về chuyện của một khách khác hay sao? Tôi đề nghị thế này: cứ mỗi lần chúng ta uốn lưng, uốn lưỡi, uốn nụ cười ruồi, hãy tưởng tượng ra rằng Phật đang dùng tuệ nhãn nhìn chúng ta và cười khì. Không chừng nghe Phật cười khì mà mình chợt tỉnh ra và bắt đầu tống khứ người khách ra khỏi lòng để trở lại làm ta của ta. Ai cũng biết chuyện con khỉ Tôn Hành Giả: nó nhổ một sợi lông, thổi một cái, biến thoắt ra trăm ngàn con khỉ đánh nhau với yêu quái. Cái hay của con khỉ họ Tôn là từ một sợi lông, nó biến ra trăm ngàn con khỉ rồi lại trở về với một con khỉ, là chính nó. Nó là trăm ngàn bởi vì nó là nó. Ta nhổ hết lông cũng chẳng hạ được con yêu nào, bởi vì ta chẳng là ta. Hiện tại, sao mà ai nấy lăng xăng làm đủ mọi chuyện, trừ có mỗi một chuyện thôi là chuyện tu. Nói phát triển làm gì cho mệt, khi từ cái bước đầu ta đã tự mình xa mình nghìn trùng!
“Ta với ta”, thứ hai, là với gia đình. Đó là chuyện tôi cố gắng làm hằng ngày với vợ con, và thú thực không phải lúc nào cũng thành công. Nhưng làm hoài, ngã rồi đứng dậy, làm nữa.
Thứ ba, tôi đang “ta với ta” với anh Cường và với tất cả các bạn ở đây. Và thưa anh, giá như các Giáo Hội của chúng ta cũng “ta với ta” với nhau thì vui biết mấy!
Cứ thế, trong tinh thần đó, hãy “ta với ta” với những vấn đề cao siêu nhất của thời đại. Lý thuyết về nhân quyền chẳng hạn. Quan niệm cá nhân như một chủ thể tối thượng là quan niệm của Tây phương. Người chủ thể tối thượng là một người đơn độc, bởi vì đứng cao nhất thì đương nhiên là đứng một mình. Tôi không muốn đứng trên, tôi muốn đứng với. Không có ai nhào nặn ra tôi rồi chỉ vào tôi tuyên bố: nó là tối thượng. Từ bản thân, tôi đã là một mớ tương quan chằng chịt, làm sao tôi quan niệm được tôi ngoài những tương quan, nghĩa là ngoài chữ với? Không có triết lý nào dạy tôi hiểu ý niệm bình đẳng hơn là đạo Phật. Phật không dạy tôi chữ trên, Phật dạy tôi chữ trong: chân lý là ở trong tôi, chỗ đứng xã hội của tôi là ở trong mọi người. Tôi không ở trên, cho nên tôi không đi ra; tôi ở trong cho nên tôi đi vào. Vào trong tôi và vào với mọi người. Đi ra thì mất, thì là khách. Đi vào là được, thì là chủ. Tất cả đều đi vào với nhau, ở trong nhau, và không ai ở trên ai. Đó là mối tương quan giữa con người và quyền lực.
Tôi nghĩ đó không phải là nói suông cho vui miệng. Lý tưởng của mọi người cầm quyền há chẳng phải đừng là khách mà cũng đừng là chủ của nhân dân đó sao? Và nếu bây giờ anh Cường hỏi tôi: vậy thì tương quan giữa Phật giáo và lãnh đạo chính trị hiện tại nên như thế nào? Tôi sẽ nói với anh: thì ta với ta!
GS-TS Cao Huy Thuần
(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo)
Cao Huy Thuần là người Pháp gốc Việt, hiện là giáo sư về ngành chính trị học tại đại học Picardie, Pháp
Ông sinh tại Huế, học đại học Luật Sài Gòn (1955-1960), dạy đại học Huế (1962-1964), xuất bản tờ báo Lập Trường (1964) trước khi qua Pháp du học.
- Đầu năm 1969, ông bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại học Paris và sau đó là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu về Cộng đồng châu Âu tại Đại học Picardie
- Hiện nay ông là giáo sư giảng dạy tại Đại học Picardie, Pháp. Cũng như một số trí thức Việt kiều khác, ông cũng thường xuyên về Việt Nam tham dự các cuộc hội thảo về các lĩnh vực chính trị, xã hội
- Ông đã in rất nhiều tác phẩm bằng tiếng Pháp về khoa học chính trị và quan hệ quốc tế. Với tiếng Việt, ông cũng đã in và viết rất nhiều bài báo tại Việt Nam và được đánh giá là các tác phẩm văn chương chính trị
Tác phẩm
– Thượng đế, Thiên nhiên, Người, Tôi và Ta (Triết lý luật và tư tưởng Phật giáo). Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh, 2000
– Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam, 1857-1914. Nhà xuất bản Tôn giáo, 2002
– Từ Đông sang Tây (chủ biên). Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2005
– Tôn giáo và xã hội hiện đại. Nhà xuất bản Thuận Hóa/Phương Nam, 2006
– Nắng và Hoa. Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn, 2006
– Thế giới quanh ta. Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007
– Thấy Phật, Nhà xuất bản Tri Thức 2009
– Khi tựa gối khi cúi đầu(2011)
– Chuyện trò (2012)
– Nhật ký sen trắng (2014)
– Sợi tơ nhện (2015)