TRÙNG TRỊ TỲ NI – SỰ NGHĨA TẬP YẾU

TRÙNG TRỊ TỲ NI
SỰ NGHĨA TẬP YẾU

CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích

Việt dịch: Sa-môn THÍCH ĐỔNG MlNH

Nhuận văn và chú thích:Sa-môn THÍCH ĐỨC THẮNG

—o0o—

TIỂU SỬ

HÒA THƯỢNG LUẬT SƯ THÍCH ĐỖNG MINH

1. THÂN THẾ

Hòa thượng họ Đỗ, húy Châu Lân, sinh năm Đinh Mão – 1927 tại thôn Quan Quang, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Đỗ Hoạch, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Tú. Gia đình gồm có năm người con, hai trai, ba gái, Hòa thượng Thích Đỗng Quán thứ ba, ngài thứ tư.

Gia đình ngài đời đời thuần tín Tam bảo. Cha mất sớm, được mẹ chăm lo dạy dỗ. Với bẩm tánh thông minh và hiếu học, năm 11 tuổi ngài thi đậu bằng Yếu Lược, việc này chưa từng xảy ra tại quê ngài, nên đích thân Lý trưởng đến thăm và chúc mừng. Đó là một vinh dự cho gia đình và quê hương ngài lúc bấy giờ.

2. XUẤT GIA HỌC ĐẠO

Vốn có sẵn hạt giống Bồ-đề, túc duyên Phật pháp, năm 13 tuổi, ngài xuất gia với đại sư Chơn Quang – vốn là chú ruột – tại chùa Khánh Vân, thôn Văn Quang, xã Phước Quang, tỉnh Bình Định. Sau đó, ngài được Hòa thượng chùa Thiên Hưng đưa vào Phan Rang và trao cho Hòa thượng Huyền Tân chùa Thiền Lâm làm đệ tử với pháp danh Thị Khai, tự Hạnh Huệ, hiệu là Đỗng Minh, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 42.

Năm Quý Mùi – 1943, ngài thọ Sa-di giới tại Đại giới đàn Long Khánh.

Năm 19 tuổi (1946), Hòa thượng được Bổn sư cho thọ Đại giới tại Đại giới đàn chùa Thiên Bình – Bình Định. Ngài Huệ Chiếu chùa Thập Tháp làm Đàn đầu Hòa thượng, với tuổi 19 thì chưa đủ tuổi theo Luật định nhưng với thiên tư đỉnh đặc ngài được Bổn sư đặc cách và Hội đồng Thập sư hoan hỷ chấp thuận.

Sống trong cảnh nước mất nhà tan, như bao thanh niên khác, Hòa thượng đã tham gia Hội Phật giáo cứu quốc tỉnh Ninh Thuận với cương vị Chủ tịch. Tuy lo việc nước nhưng Hòa thượng luôn giữ vững sứ mệnh xuất gia học đạo của mình.

Năm 23 tuổi (Canh Dần – 1950), ngài được Bổn sư ra ra theo học tại Tăng Học Đường Nha Trang, lúc ấy có danh xưng là Tăng Học Đường Nam Phần Trung Việt, đặt tại trường Bồ Đề – Nha Trang, do Hòa thượng Thích Thiện Minh làm giám đốc.

Năm 1954, Hòa thượng được Ban giám đốc Tăng Học Đường vào Sài Gòn học các nghề y tá, bào chế hóa chất… để bổ sung cho y phương minh, công xảo minh… làm tư lương hành đạo sau này.

Năm 1955, ngài xin ra Huế tham học với các ngài Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Siêu, Thích Trí Quang để hoàn tất chương trình Đại học Phật giáo. Trong thời gian này, ngài lưu trú tại chùa Từ Quang.

3. THỜI HÓA ĐẠO

Năm Kỷ Sửu (1949), ngài được Hòa thượng Bổn sư cử giữ chức Thủ tọa (trị trì) chùa Thiền Lâm – Ninh Thuận.

Năm Canh Dần (1950), khi vào tu học tại Tăng Học Đường Nha Trang, ngài được Ban giám đốc và đại chúng đề cử giữ chức Thủ chúng để điều hành mọi sinh hoạt của chúng Tăng. Vì thế, Tăng Ni và Phật tử lúc ấy đều gọi ngài là “Thầy Thủ”.

Năm Đinh Dậu (1957), sau khi hoàn tất chương trình Đại học Phật giáo, từ Huế trở về Nha Trang, ngài được Tổng hội Phật giáo Trung phần lúc ấy phân công nghiên cứu, tổ chức thành lập hãng vị trai Lá Bồ-đề để làm kinh tế tự túc cho việc đào tạo Tăng tài. Sau đó, hãng này được phát triển thành hai chi nhánh, một tại Sài Gòn, một tại Huế. Nguồn thu nhập tài chánh của ba cơ sở kinh tế này đã giữ một vai trò quan trọng trong việc đào tạo Tăng tài lúc bấy giờ. Ngài đã đảm nhiệm chức vụ Giám đốc cơ sở sản xuất này từ lúc thành lập cho đến lúc chuyển thể.

Cũng trong năm này, Tăng học đường Nha Trang và Phật học đường Báo Quốc – Huế hợp lại thành Phật học viện Trung phần đặt tại chùa Hải Đức – Nha Trang (thường gọi là Phật học viện Hải Đức Nha Trang) do Hòa thượng Thích Giác Nhiên làm Viện trưởng, Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Giám viện và Hòa thượng Thích Thiện Siêu làm Giáo thọ trưởng, ngài được mời giữ chức Trưởng ban kinh tế tự túc và làm giáo thọ giảng dạy thường xuyên tại Viện và các Phật học viện phụ cận trong những năm sau đó.

Năm Quý Mão (1963), ngài là thành viên Ủy ban bảo vệ Phật giáo tại Nha Trang – Khánh Hòa, cùng với Tăng, Ni và Phật tử vận động tranh đấu, chống lại chính sách kỳ thị và đàn áp tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm.

Năm Đinh Mùi (1967), Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất mời ngài giữ chức đại diện miền Khuông Việt, gồm các tỉnh Cao nguyên Trung phần.

Năm Mậu Thân (1968), ngài giữ chức Vụ trưởng Phật học thuộc Tổng vụ Giáo dục Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, điều phối và chăm sóc các Phật học viện toàn miền Nam lúc bấy giờ.

Năm Canh Tuất (1970), Phật học viện Hải Đức – Nha Trang mở lớp chuyên khoa Phật học, ngài được mời giữ chức Giám học thường xuyên đôn đốc việc tu học của Tăng Ni sinh.

Ngày 19 tháng 09 năm Quý Sửu (1973), ngài cùng với Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Thủ mở Đại giới đàn Phước Huệ cho Tăng Ni từ Quảng Trị trở vào Nam thọ giới – đây là giới đàn lớn nhất. Hội đồng Thập sư được cung thỉnh từ Trung vô Nam và Đại lão Hòa thượng Thích Phúc Hộ làm Đàn đầu Hòa thượng.

Năm Giáp Dần (1974), Viện Cao đẳng Phật học Hải Đức – Nha Trang thành lập do Hòa thượng Thích Thiện Siêu làm Viện trưởng, ngài giữ chức Phó viện trưởng điều hành, theo dõi chăm sóc mọi sinh hoạt của Viện.

Từ ngày thành lập Phật học viện đến Viện Cao đẳng, ngài và Hòa thượng Thích Trừng San là hai trợ lý đắc lực cho Hòa thượng Giám viện Thích Trí Thủ.

Đầu năm Mậu Ngọ (1978), ngài vào Sài Gòn dự tang lễ đức Phó Tăng thống GHPGVNTN, trên đường về thì ngài gặp nạn. Gần hai năm bị giam giữ tại Nha Trang như là một khổ duyên giúp cho ngài tăng trưởng nhẫn nhục Ba-la-mật… Bộ Tỳ-ni nhật dụng được dịch ra văn vần thuộc lòng cũng trong thời gian này.

Năm Tân Dậu (1981), GHPHVN thành lập, ngài được mời làm Đại biểu dự Đại hội trong Phái đoàn GHPGVNTN.

Năm 1982 và năm 1983, ngài an cư và dạy Luật tại Tu viện Quảng Hương Già-lam và Phật học Vạn Hạnh. Từ năm 1983, ngài được mời làm Thành viên Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương trong suốt 4 nhiệm kỳ.

Năm 1990, trường Cơ bản Phật học tỉnh Khánh Hòa thành lập, ngài được cung thỉnh giữ chức Giáo thọ trưởng và giảng dạy cho trường.

Từ năm 1983 đến 2001, ngài được cung thỉnh làm Tuyên luật sư cho các Đại giới đàn Trí Thủ I (1993), II (1997) và III (2001) tại chùa Long Sơn, Nha Trang, Khánh Hòa.

Năm Ất Hợi (1995), được sự tài trợ của Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh ở Đài Loan, ngài tổ chức đào tạo một lớp phiên dịch cho Tăng, Ni. Sau đó, tiếp tục hướng dẫn Tăng Ni, Cư sĩ dịch được nhiều bộ kinh trong tạng Đại Chánh Tân Tu, đồng thời ngài chứng nghĩa tất cả các bản dịch.

Năm Bính Tý (1996), ngài được cung thỉnh làm Tuyên luật sư cho Đại giới đàn Thiện Hòa tại Đại Tùng Lâm – Bà Rịa Vũng Tàu.

Năm Đinh Sửu (1997), ngài được Giáo hội Phật giáo Việt Nam tấn phong ngài và suy tôn vào Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Năm Tân Tỵ (2001), trong Đại hội nhiệm kỳ III, Ban trị sự Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa cung thỉnh ngài làm Chứng minh và cố vấn cho Tỉnh hội, đồng thời thỉnh ngài làm cố vấn cho Ban Tăng sự và Ban Giáo dục Tăng Ni của Tỉnh hội.

Năm Nhâm Ngọ (2002), được sự hỗ trợ của các pháp hữu ở hải ngoại, ngài vận động thành lập Ban phiên dịch Pháp Tạng Phật giáo Việt Nam và giữ trách nhiệm Trưởng ban hướng dẫn Tăng, Ni, Cư sĩ phiên dịch. Từ đó đến nay đã dịch được nhiều kinh sách và lưu hành rộng rãi cả trong nước lẫn ngoài nước.

Năm Quý Mùi (2003), ngài được Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam mời giữ chức Phó Viện trưởng.

4. PHIÊN DỊCH LUẬT TẠNG

Vì bản hoài sách tấn Tăng, Ni nghiêm trì giới luật, thể hiện đạo phong Trưởng tử Như Lai, phụng sự đạo pháp nên từ lâu ngài đã dụng công nghiên cứu Luật tạng và từ năm 1978 đến nay, ngài đã phiên dịch những bộ quảng luật thuộc hệ thống Luật tạng thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh như:

1.Tứ phần luật (60 quyển) – Hán dịch: Diêu Tần, Phật-đà-da-xá và Trúc Phật Niệm, Đại Chánh 22n1428.

2.Di-sa-tắc bộ hòa hê ngũ phần luật (30 quyển) – Hán dịch: Lưu Tống, Phật-đà-thập cùng Trúc Đạo Sinh, Đại Chánh 22n1421.

3.Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da (50 quyển) – Hán dịch: Đường, Nghĩa Tịnh, Đại Chánh 23n1442.

4.Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ bí-sô-ni tỳ-nại-da (20 quyển) – Hán dịch: Đường, Nghĩa Tịnh, Đại Chánh 23n1443.

Ngoài ra, ngài còn dịch các bộ:

– Trùng trị tỳ-ni (19 quyển, bản Biệt hành). Sa-môn Trí Húc biên soạn.

– Tỳ-kheo giới bổn sớ nghĩa (02 quyển, bản Biệt hành). Sa-môn Truyền Nghiêm tập thuật.

Và biên soạn:

– Dịch thuộc lòng bộ Luật tiểu (04 quyển) ra văn vần trong thời gian bị quản chế tại Nha Trang.

– Nghi truyền giới.

Năm 1991, là thành viên Hội đồng phiên dịch Luật tạng Phật giáo Việt Nam (do Phân viện Nghiên cứu Phật học Hà Nội mời).

5. VIÊN TỊCH:

Cuộc đời ngài với nhiều sóng gió, đến lúc già mới có phần nhẹ nhàng. Nhưng với nếp sống nghiêm túc, khắc kỷ và tuổi già sức yếu do bao gian nan thời niên thiếu, ngài lâm trọng bệnh. Thân tuy bệnh nhưng tâm ngài luôn an nhiên tự tại, biết ngày về với Phật không còn lâu, ngài đã sắp xếp việc phiên dịch, việc sử dụng tịnh tài dùng trị bệnh của ngài còn lại, duy trì và phát huy giới luật và khuyên thị giả cố gắng nối tiếp công việc này. Có lần thị giả hỏi: “Ôn còn gì dặn dò?”, ngài đáp: “Những gì cần làm tôi đã làm, có gì nữa để dặn dò”, từ đó ngài nhiếp tâm niệm Phật.

Ngày 11 tháng Năm năm Ất Dậu (17 – 06 – 2005), ngài yếu dần, bảo thị giả đưa lên giường nằm, đến 18 giờ 35 phút ngài an nhiên xả báo thân trong tư thế cát tường.

79 năm trụ thế, 59 năm hạ lạp, cả cuộc đời của ngài là một bài học về thân giáo, ngài luôn thể hiện lối sống của một bậc chân tu, thiểu dục tri túc, giới đức tinh nghiêm, gắn liền đời sống của mình với sự nghiệp giáo dục đào tăng tài. Mặc dù về già, ngài chuyên về dịch thuật nhưng vẫn luôn theo dõi khích lệ đàn hậu bối, mà sự dịch thuật của ngài cũng nhằm mục đích giáo dục.

Hôm nay, ngài không còn nữa, đàn hậu học và những học trò của ngài bơ vơ lạc lõng vì mất đi một bậc thầy trí đức kiêm tài nhưng gương nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu hành, tiếp dẫn hậu lai mãi mãi chiếu tỏa sáng ngời.

Nam Mô Tự Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Nhị Thế, Ninh Thuận Thiền Lâm Phú Pháp, Khánh Hòa Long Sơn Hóa Đạo, Huý Thượng Thi Hạ Khai, Tự Hạnh Huệ, Hiệu Đỗng Minh Hòa Thượng Giác Linh.

PHI LỘ

Pháp quyển” mà Bổn sư của tôi, Hòa thượng Thích Huyền Tân ban cho tôi như một điều khẳng định mở lối để cho tôi chuyên tâm đi sâu vào việc học tập, nghiên cứu giới luật, sau khi tôi thọ cụ túc năm 1947.

Đã gần 50 năm qua, từ việc học tập, hành trì đến việc giảng dạy, dịch thuật nhiều bộ luật, song bộ LuậtTrùng trị đã gắn bó với tôi một cách mật thiết, nó đã hằn sâu trong tôi, nó đã trở thành một bản thể của bản thể trong đời sống Bí-sô của tôi.Những việc mà tôi sắp thuật lại sau đây, tôi xem như sự trang trải tấm lòng thù ân của tôi lên quá khứ cũng như hiện tại đã trực tiếp hay gián tiếp giúp tôi hội đủ khả năng để hoàn thành bộLuật Trùng trị bằng tiếng Việt này.

Xin được bắt đầu ghi lại:

Ngay sau khi thọ đại giới, phần giới bổn của bộ Luật tôi tiếp thu từ Bổn sư của tôi và chính đây là nền tảng mà thầy tôi đã thiết lập cho tôi.

Sáu năm sau, tôi đến Nha Trang, đến với Tăng Học Đường tại chùa Long Sơn, trụ sở Tỉnh hội Phật học Khánh Hòa. Tôi nhớ rõ năm ấy là năm 1953, và càng nhớ rõ hơn Hòa thượng Giám Luật Thích Đôn Hậutừ Tổng Trị Sự Huế vào phụ trách dạy Luật cho trường hạ: Ngài dạy phần Giải thích và Tướng trạng của tội, những điểm căn bản của bộ Luật. Đây là dấu ấn đức hạnh như tên gọi của ngài đã đặt lên tôi nói riêng, cho quý thầy từ bốn tỉnh: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và Đà Lạt Tuyên Đức nói chung về tu học tại Tăng Học đường trong mùa an cư năm đó.

Sau đó vài năm, cứ mỗi mùa an cư, tại Phật Học Viện Trung phần,chùa Hải Đức Nha Trang, Hòa thượng Luật sư Thích Trí Thủ đều giảng dạy những vấn đề thiết yếu: Khai, Giá, Trì, Phạm của bộ Luật cho quý thầy sau những ngày hoằng hóa khắp nơi quy tụ về an cư tu học,cũng như cho anh em học Tăng đang học tập tại Phật Học Viện. Có đến 20 mùa an cư, tại trú xứ này, tôi được gần gũi ngài Hòa thượng Giám viện Thích Trí Thủ để tiếp thu những điều Tác-Trì và kiến thức Luật học của ngài.

Kiến thức sâu rộng về Luật học là một lẽ, còn việc vận dụng vào đời sống thực tế vào việc hành trì là một lẽ khác, nhất là về mặt kiết giới và trị phạm, cần có sự linh hoạt và thực tiễn để Luật học không trở thành cứng nhắc.Do vậy, cần có sự vận dụng uyển chuyển theo sự phát triển của xã hội, song vẫn bảo đảm đúng pháp, đúng luật, đúng như lời Phật dạy. Nói khác hơn, phải nắm thật chắc mọi tinh hoa đã được tập thành trong Luật tạng để việc áp dụng không rơi vào lệch lạc và sự hành trì không vướng bận chi ly.

Ngài Hòa thượng Luật sư Thích Thiện Hòa đã tập thành được những tinh hoa ấy… Tôi đã trực tiếp học ở ngài các vấn đề quan yếu về Tác-Trì. Ngài đã chỉ ra tính cách sâu sắc của Luật học mà đằng sau nó là sự giải thoảt, điều sau cùng của một Tỳ-kheo phải đạt được.

Những điều tôi học hỏi nghiên cứu về bộ Luật Trùng trị là như thế. Tuy nhiên, những kiến thức có được
về Luật chưa phải là đủ, và không biết bao giờ mới đủ được! Tôi tiếp tục học hỏi qua việc giảng dạy và dịch thuật Luật.

Về việc giảng dạy hay trong việc thuyết trình, tôi đã tham khảo nhiều bộ Luật, song căn bản vẫn lấy bộ Trùng trị làm tư liệu chính để soạn giáo án, cô đọng những vấn đề thiết yếu nhầm làm sáng tỏ phần giới bổn của bộ Luật. Đây là phần chính tôi giảng dạy cho các tân Tỳ-kheo sau mỗi kỳ Giới đàn tại Phật Học Viện Nha Trang hay gần đây tại trường Cơ Bản Phật Học Khánh Hòa.

Tôi cũng được sự chỉ định của Hòa thượng Thích Trí Thủ vào Sài Gòn dạy Luật cho lớp Cao Đẳng chuyên khoa tại Quảng Hương Già-Lam, cũng như tại Phật học Vạn Hạnh trong hai mùa an cư 1982 và 1983.

Còn tại trú xứ chùa Long Sơn, Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa, tôi được sự giao phó của Hòa thượng Giám Luật Thích Trí Nghiêm giảng giải đến các đề tài về Luật học sau những lần chúng Tăng tập hợp Bố-tát. Cũng tại trú xứ này, qua suốt các mùa an cư của thập kỷ 80 cho đến tận hôm nay, tôi đảm trách thuyết trình các vấn đề chuyên biệt của giới luật, sự vận dụng và hành trì trước Tăng, Ni thuộc thành phố Nha Trang.

Song song với việc soạn và giảng dạy, tôi đă dành trọn thời giờ cho niềm vui trong việc thảo luận, bổ chính các vấn đề có liên quan đến Luật học và tập chú vào việc dịch thuật các bộ Luật từ Hán tạng.

Đối với việc thảo luận góp ý, tôi có diễm phúc cùng với thân giáo sư của tôi, Hòa thượng Thích Thiện Siêu,giám định lại những điểm ngộ nhận trong bộ Luật “Tỳ-kheo-ni sao” mà Hòa thượng Giám Luật Thích Đôn Hậu đã dịch ra Việt ngữ và được ngài đồng ý cho sự giám định này. Chính việc làm này dẫn đến việc tôi nhận bổ chính bộ Luật Tứ phần Tỳ-kheo-ni giới bổn chú giải do ngài Trí Minh dạy, Ni sư Thích nữ Như Hoa ghi chép và đánh máy. Năm ấy là năm Đinh Mão 1987, PL. 2530 và cũng trong năm này tôi khởi dịch toát yếu phần Tác-Trì của bộ Luật Trùng trị. Công việc này đã hoàn thành vào ngày vía Xuất gia của đức Bổn Sư năm Mậu Thìn 1988, PL. 2531.

Dịch xong phần Tác-Trì, đây là phần thiết yếu, như vậy cũng có nghĩa là soạn dịch xong phân nửa bộ Luật rồi. Phần còn lại là phần “Chỉ-Trì”, tôi tiếp tục dịch trong những tháng ngày đau yếu chữa trị mắt bị đục thủy tinh thể.

Do bệnh huyết áp cao và mắt mờ dần, mọi dự định gần như bị đảo lộn… Trong 20 quyển của bộ Luật, tôi dịch được 18 quyển thuộc phần chính, còn hai quyển đầu và cuối tôi đành phải nhờ Tâm Hạnh, đệ tử của cố Hòa thượng Thích Trừng Sandịch hộ.

Sau cùng điều còn lại là lòng tri ân:

Trước hết con xin thành kính đảnh lễ tri ân thân giáo sư: Hòa thượng Thích Thiện Siêu, đã hoan hỷ phủ chính cho bản dịch bộ Luật Trùng trị này của con.

Tôi cảm ơnNi sư Thích Nữ Huệ AÂn. Ni sinh Ni Viện Diệu Quang Nha Trang, học trò cũ của tôi, từ nước Mỹ đã xin phát nguyện cúng tịnh tài để in ấn bộ Luật này.

Giờ đây, sau những tháng miệt mài đọc lại bản dịch, chú thích và nhuận văn của Đức Thắng đã đánh vi tính xong, việc còn lại: in thành sách bộ Luật Trùng trị này, một kết quả của nhiều năm được tụ lại từ mọi nhân duyên đã vừa hội dủ.

Xin gửi đến chư Tôn đức và các vị trong giới Luật họcbộ Luật này như sự cúng dường, biết ơn muôn một.

Ngưỡng cầu Tam Bảo thùy từ giám nạp.

Dịch giảThích Đỗng Minh

Cẩn Thuật*

 

LỜI TIỂU DẪN

(Lần khắc bản lại năm 1890)

Tạng Luật là kỷ cương của Phật pháp, là mạch sống của Tăng già. Tiếc thay vào khoảng đời Nguyên đến đời Minh, Luật học không còn ảnh hưởng. Người có chí thấy vậy đành thở ra, dậm chân tại chỗ. Kẻ không hiểu giềng mối của luật thì tranh nhau truyền bá sai lầm.

Đến khi ngài Ngẫu Ích Đại Sư xuất hiện, ba lần duyệt Luật tạng, soạn thành bộ Tập yếu gồm 18 quyển, tóm lược cương lĩnh của Luật học. Đó là “Sơ trị”.

Từ đó, đến 13, 14 năm sau, tuy cố gắng nhưng khả năng có hạn, lại không có người để tham vấn, nên không viết thêm được gì.

Nhân nghĩ đến số tài liệu đã soạn trước, tuy các điều hay đã thâu nhặt vào, nhưng chưa chọn lọc từng vấn đề, và hai tập “vấn biện” cùng “âm nghĩa” vẫn chưa khắc in, chi bằng hội chung với Tập yếu, để người học khỏi phải thấy sự mênh mông như biển cả của Luật học mà than thở. Đó là “Trùng trị”. Và nghĩ rằng hai tập này truyền đến nước ta không biết từ thời nào. Đến khoảng niên đại Tự Đức, nhân lúc thầy tôi hiệu đính bản Tỳ-kheo-ni giới bổn, lại gặp được bản “Sơ trị” của phương Bắc gồm 11 quyển đầu. Sau đó, mặc dù hết sức tìm kiếm nhưng không đủ bộ.

May mắn gặp được vật quý giá như vậy làm sao bỏ qua. Thế nên bản phương Bắc đã giao cho Đại đức Phổ Tấn khắc bản. Còn bản phương Nam thì tra cứu lại bản sao lần đầu, hiệu đính lại từng phần, chép thành một bản riêng, ủy thác cho Thanh Chí Cao Thiền thay mặt thầy tôi để khắc lại. Khi ấy, công việc khắc in vừa xong, người phụ trách việc kiểm soát, truyền bá Tỳ-ni vội về nơi an dưỡng. Người chuyên trách việc khắc bản đã cỡi bè giới đến Liên Bang.

Than ôi đời mạt pháp nên khiến ra như vậy!

Khởi công khắc bản vào đầu mùa thu năm Ất Dậu (1885), hoàn tất vào cuối mùa hạ năm Canh Dần (1890).

Ngày Rằm tháng Sáu năm Thành Thái thứ hai, người vâng lệnh kiểm soát bản khắc, chí thành đảnh lễ, thuật lại.

BÀI TỰA

LUẬT TRÙNG TRỊ TỲ-NI SỰ NGHĨA TẬP YẾU

Giáo pháp của Như Lai vang lừng khắp Đông Độ, trước sau đều nhờ vào giới luật. Pháp âm từ bi nhờ vậy ban bố cho chúng sanh, mở mang hưng thịnh và hoàn bị đến ngày nay.

Giới luật thịnh hay suy đều do con người, mà nay con người đã đến lúc quá suy đồi!

Việc truyền giới các nơi trong quốc độ này phần nhiều chưa y vào Luật và Pháp. Nói đúng hơn, thậm chí ngày nay, sự truyền giới và thọ giới trong nước ta đều sai lầm. Thật là sự sai lầm cho cả mình và người. Tất cả tệ trạng này đều do thầy trò truyền thừa cho nhau trái với lời dạy của Phật đã chế định.

Ngài Thiên Thọ Chấn Công Hòa thượng tinh tường tu tập ba tông, thấu triệt tận những chỗ vi tế. Ngài chống tích trượng du hóa nơi đất Tần, gặp cơ duyên trú ở Thiên Thọ. Ngài cảm thương cho luật pháp không được hoằng truyền, nên phát nguyện thay đổi tệ trạng này.

Hơn mười năm, ngài lấy Luật làm đầu. Nên dưới ngài có một số các vị có tâm chí muốn truyền trì giới luật, trong đó Tỳ-kheo Tấn Liêu nhiệt thành và có khả năng nhất. Tấn Liêu thiên tư đặc biệt chuyên về Luật tông, xem hết giáo lý Tỳ-nại-da (giới luật), nghiên cứu cùng tận cương chỉ của năm thiên 1.

Tiếc thay những nhà chú thích Luật không nhiều, Tạng luật lại phức tạp. Thế nên làm cho người học cũng khó thấu triệt. Duy có bộ Trùng trị tỳ-ninày là có khả năng thức tỉnh những tệ trạng hiện nay, đủ để trình bày rõ chỗ hướng về. Do thế, tôi rất tha thiết mong được khắc bản để lưu truyền ở đời, hy vọng đáp ứng cho mọi người được phần nào.

Ý muốn là một việc, nhưng thời gian không cho phép, nên chưa thực hiện được. May thay gặp caùc vị Tỳ-kheo: Cốc Ấp, Triêu Dương, Truyền Giới, Tự Luật cũng đều nghĩ rằng: Nếu khắc bản được bộ Trùng trị tỳ-niđề lưu hành thì lợi ích cho Luật học và người đi sau có chỗ học hỏi.

Khi ấy các vị: Cửu Thánh, Tuệ Thạch, Phật Bích, Thiên Thọ, Trí Đài cùng một số vị Thượng tọa trì luật khác đồng ý cử người lo tài chánh đề khởi công in. Tất cả đều một lòng quyết chí với nhau, lao khổ không sờn, chông gai chẳng ngại. Khắc bản luôn hai năm, công việc mới xong.

Ngưỡng mong những vị được thấy được nghe đều hoan hỷ thọ trì, ngõ hầu treo mặt trời Giới giữa hư không, dựng lại Chánh pháp trong thời mạt vận. Thứ nữa, không phụ lòng thương vì pháp của Tổ và báo đáp ân đức của Phật, như một giọt nước trong biển cả!

Luật học Tỳ-kheo Trí Đài soạn

MỤC LỤC

LUẬT TRỪNG TRỊ TỲ-NI SỰ NGHĨA TẬP YẾU

Quyển đầu:

– Tự bạt.

– Tổng vấn biện.

– Phàm lệ.

– Đề cương.

– Tổng mục của Tứ phần.

– Phẩm mục của Tứ phần.

– Các kinh luật liên hệ.

Quyển I: – Tỳ-kheo giới từ dề mục đến kệ tán.

Quyển II: – Tiếp theo từ phần vấn đáp khải bạch đến giới dâm.

Quyển III: – Từ giới ăn trộm đến giới làm mai mối.

Quyển IV: – Từ giới làm nhà quá lượng đến giới lìa y ngủ.

Quyển V: – Từ giới chứa y quá tháng đến giới chứa bát mới.

Quyển VI: – Từ giới dệt y, không phải bà con đến giới dị ngữ.

Quyển VII: – Từ giới hiềm mắng đến giới ăn phi thời.

Quyển VIII: – Từ giới ăn đồ cách đêm đến giới cùng đi với giặc.

Quyển IX: – Từ giới không bỏ ác kiến đến giới chúng học.

Quyển X: – Từ chúng học đến kệ tán hồi hướng.

Quyển XI: – Tổng biện Yết-ma. – Kiết giới. – Thọ giới.

Quyển XII: – Y chỉ – Làm thầy – Đệ tử thờ thầy – Thượng tọa – Đồng học – Lễ kính – An cư – Tự tứ – Y công đức.

Quyển XIII: – Sáu pháp trị tội.

Quyển XIV: – Y bát – Ăn – Thuốc. – Thọ thực – Khám bệnh – Phòng xá. – Ngọa cụ – Đồ vật.
– Tích trượng – Pháp của Tùng lâm.

Quyển XV:

– A-lan-nhã – Đại chúng họp.

– Chia vật – Nói pháp.

– Đọc tụng – Ngồi thiền.

– Tạp pháp – Kinh phạm giới tội.

– Nặng nhẹ – Bài tụng giới tướng.

Quyển XVI: – Tỳ-kheo-ni giới từ đầu đến giới thứ 115 Ba-dật-đề.

Quyển XVII: – Tiếp theo cho đến hết và tạp pháp. – Bạt ngữ.

Quyển XVIII– Lược thích đại tiểu trì giới kiền độ.

Nguyên bài tựa bộ Tỳ-ni sự nghĩa tập yếu và bản mục lục này lần khắc bản đầu tiên không có. Sau khảo cứu thấy ở trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội, nguyên bản của Nhật Bổn đầy đủ toàn bộ, sửa chữa bản khắc rất hoàn mỹ. Bộ này đủ từ đầu đến cuối. Từ phần “Lời tiểu dẫn…” từ cuốn đầu cho đến phần “hồi hướng” cuốn 18, tất cả là 595 tờ, nay kính cẩn ghi lại.

Bản lưu tại chùa Bửu Khám, xã Tế Xuyên, huyện Nam Xương, phủ Lý Nhân, Tỉnh Hà Nam.

 

BÀI TỰA TRÙNG TRỊ TỲ-NI TẬP YẾU

Tôisanh vào giờ Hợi, ngày mồng 3 tháng Năm, năm Kỷ Hợi, niên hiệu Vạn Lịch thứ 27, đời nhà Minh (1599).

Đến năm 24 tuổi, tôi cạo tóc xuất gia, ngày mồng 7 tháng Năm, năm Nhâm Tuất, tức năm 1622.

Năm sau, ngày mồng 8 tháng Chạp, tôi thọ giới Cụ túc trước tượng ngài Hòa thượng Vân Thê. Năm sau nữa, tôi thọ giới Bồ-tát trước tháp ngài Hòa thượng Vân Thê. Các vị A-xà-lê đều là bậc Cổ đức Pháp sư.

Năm 27 tuổi, vào mùa Xuân tôi xem qua bộ Luật, soạn “Tập sự nghĩa yếu lược”, chỉ được hơn 100 tờ.

Năm 30 tuổi, vào mùa Hạ tôi nghiên cứu Luật lần thứ hai soạn thêm được bốn tập nữa.

Năm 31 tuổi, vào mùa Đông tôi lại nghiên cứu Luật lần thứ ba, soạn thành sáu tập, gồm 18 cuốn.

Năm 32 tuổi, vào mùa Hạ tôi lại dạy cho 3 người bạn là Tịch Cốc, Như Thị và Tuyết Hàng, giảng qua một lần rất kỹ. Năm đó, tôi thêm vào hai tập đầu và cuối, thành ra 8 tập.

Năm 33 tuổi, vào mùa Đông tôi chỉ giảng bảy quyển cho Kim Đài pháp chủ, người cùng quê, ở chùa Phật Nhật, núi Cao Đình, tại Linh Phong.

Mùa Hạ năm sau, tôi tiếp tục giảng cho 10 vị, một cách đầy đủ. Trong 10 vị đó có Tỳ-kheo Triết Nhân là người có khả năng thực hành.

Năm 35 tuổi, tôi kiết hạ tại Kim Đình Tây, chùa Tiểu Hồ, giảng qua một lần cho 9 vị Tỳ-kheo, trong số đó có 3 vị Đại đức: Triết Nhân, Tự Quán, Duyên Huyễn là thuộc hạng đáng quan tâm.

Năm 36 tuổi, mùa Đông, tại Ngô Môn, nơi am Huyễn Trú, tôi lại giảng qua một lần nữa. Người nghe độ 5, 6 vị, hai Tỳ-kheo Tự Quán và Tăng Tụ có khả năng thực hành.

Năm 38 tuổi, tôi vào núi Cửu Hoa, năm 40 tuổi, tôi vào đất Mân Trung. Năm 44 tuổi tôi đến Điều Thành. Từ đó đến 13, 14 năm sau, tôi tự thấy không thể thực hiện được gì thêm vì không có người để trao đổi mà khả năng mình thì có hạn. Ba vị Triết Nhân, Tự Quán và Tăng Tụ đều quá vãng cả. Luật học thật đã không phát huy được.

Năm 51 tuổi, mùa Đông tôi từ Kim Lăng về khu mình ở Linh Phong; mùa an cư năm sau, mới có chừng 10 vị phát tâm học Luật và họ yêu cầu tôi giảng lại bộ Luật này. Nhân nghĩ đến số tài liệu đã soạn trước, tuy các điều hay đã thâu vào, nhưng chưa chọn lọc từng vấn đề. Hơn nữa, hai phần “vấn biện” và “âm nghĩa” chưa khắc in, chi bằng gom vào bộ Tập yếunày mà chỉnh đốn lại. Sau đó, tôi san định, loại bỏ những chỗ rườm rà, giữ lại những phần thiết yếu và gọn gàng, để những người căn độn khỏi phải than phiền trước sự mênh mông như biển cả của Luật học.

Ngày 21 tháng Sáu năm Canh Dần (1650), Cổ Ngô, Ngẫu Ích, Sa-môn Trí Húc tự viết bài tựa này.

KHAI TỪ

Tạng luật là kỷ cương của Phật pháp, là mạng sống của Tăng-già, là bến lành nơi bể khổ, là đường chính đưa đến Niết-bàn. Khởi đầu từ Kê Viên1, đức Thế Tôn đã đề xướng Luaät học, bằng cách Ngài gọi: “Thiện lai Tỳ-kheo” thì người được gọi, giới thể thành tựu, cho đến khi Thế Tôn thị tịch tại Sa-la song thọ, chính Ngài dặn dò rằng: “Giới luật là quan trọng nhất”.

Tuy rằng do người vi phạm mới chế giới, nhưng giới thể hiệp Ngay với vô tác; nên tùy duyên mở ra, tùy trường hợp ngăn cấm, đó chính là nêu cao sự sốngđộng vi diệu và bao quát của Luật học.

Giới luật là con đường chung của cả Đại thừa và Tiểu thừa, đâu phải chỉ là nẻo riêng của Thanh văn.

Buồn thay! Cuối đời tượng pháp, con người mù mờ, không đạt được chơn tông; Kẻ ngu muội bởi kiến văn hẹp hòi, người cuồng trí thì rơi vào ngạo nghễ; hoặc có người dựa vào thiền cơ để trốn tránh, lại có kẻ lấy Phương quảng2, để sơn thếp cách nói năng. Các vị ấy đều bị lệ thuộc vào văn tự, mấy ai hiểu được thật nghĩa. Như ngài Huệ Năng đắc tâm ấn nơi Hoàng Mai ngũ Tổ, tại sao ngài không ra hoằng hóa ngay ở Tào Khê mà cần phải đăng đàn thọ giới Cụ túc, Quốc sư Trừng Quán hoằng dương giáo lý Hoa nghiêmnơi núi Ngũ Đài, là bậc mô phạm cho cả triều đình đến dân gian mà còn lập ra mười lời thề để giữ thân. Khi đức Đại Hùng còn tại thế, Pháp bảo và Tăng bảo đều do bậc Chánh Giác phát huy, nhưng khi Thế Tôn thị tịch thì Phật bảo và Pháp bảo đều được kiến lập từ Tăng-già. Nếu Tăng-già chỉ có 10 giới trọng và 48 giới khinh thì khác nào kẻ tại gia, và nếu không có Năm thiên Bảy tụ 3thì làm sao biết được sự thoát ly thế tục là cao cả?

Thế nên biết rằng, kinh Phạm võngbao gồm cả năm đạo, chỉ trừ địa ngục, vì xuyên suốt nhau nên thành ra rộng lớn. Tạng luật chỉ áp dụng cho loài người ngăn ngừa các nạn. Vì chế như vậy nên trở thành tôn quý. Ắt hẳn có người ngưỡng mộ Đại thừa nên không chịu lệ thuộc vào tiểu tiết, tự mình để tóc, không mặc pháp y, muốn làm đóa sen trong biển lửa. Nếu như các vị ấy có lòng thương đời mạt pháp, có chí làm bậc trụ cột, sao lại buông lung phóng túng theo ý mình, cam làm con giòi trong thân con sư tử vậy?

Trí Húc tôi, tự nghĩ mình nghiệp chướng nặng nề không thể tu hành theo lý huyền diệu được, lại buồn vì tuổi đã lớn, mà chưa được gần gũi các bậc Hiền triết. Đau đớn nhất là không níu kéo được thời gian, nên tôi từ giã mẹ hiền đi xuất gia, và nghĩ rằng Tịnh độ có thể về. Tôi ái mộ đại sư Liên Trì nhưng chỉ được học với ngài qua sách vở để lại.

Biện biệt về kỷ cương của Tông mỗi khi nhớ đến phong thái của ngài Tư Bá, hộ pháp quên thân, nguyện kế tục theo phái Khuông Sơn, mà thấy kẻ lưu tục đương thời nên than thở, đọc kinh Di giáolại càng thêm buồn tủi.

Mãi đến cuối mùa Đông năm Giáp Tý, tôi làm lễ tháp Vô Lượng Quang, lòng càng bội phục nên phát tâm tăng thượng, cầu xin các bậc Cổ đức Xà-lê chứng minh, để học giới Bồ-tát. Sau đó, tôi tham khảo Luật bộ của cả Đại thừa và Tiểu thừa, lấy Tứ phần luậtlàm chuẩn, và tham khảo luật của những bộ phái khác, soạn thành bộ Sự nghĩa yếu lược. Tôi làm việc này với cái khả năng nhận thức ngu muội quê mùa, do đó, không thể trình bày hết sự cao rộng của Luật học được, nhưng việc làm này là để tạo tư lương cho mình với sự vô tâm không vụ lợi.

Mùa Xuân năm Mậu Thìn, tôi gặp Tuyết Hàng Tiếp Công, lòng rất mừng vui vì ngài nghiêm tịnh Tỳ-ni. Nhân đó tôi có ý muốn vào núi gấp để tra cứu lại những chỗ trích lục (ghi chép) vẫn còn nhiều sơ sót. Tôi đến hang Thiền Long Cư, xem lại văn trong Tạng, không luận bộ phái mình hay tông phái khác, những vấn đề nào chính yếu tôi đều trích lục cả, tra cứu những chỗ khinh trọng của Luật rất tận tường, để xác định rõ ràng tiêu chuẩn của sự khai, giá. Đồng thời, tôi tra cứu Đại luật, tìm cho được nguồn gốc sự đồng dị, và hết sức tránh những ý kiến riêng tư, nên không mắc phải cái sai là chê Tiểu thừa, do đó những kẻ thích sự thẳng mực, khó có cớ mượn lý Đại thừa để phê phán. Tôi khảo đính thành một pho, đặt tên là “Tỳ-ni sự nghĩa tập yếu”.

Tôi tham khảo ý kiến của các bậc Chân Tịch, Bốc Lão nhân, thiền sư Bác Sơn Vô Dị thì các ngài đều khuyến khích khắc bản lưu thông.

Sau đó, tôi lại cùng với hai pháp hữu Bích Như và Quy Nhất xem xét thảo luận lại cho chắc chắn, và bổ túc cho hoàn chỉnh.

Kim Đài Pháp Chủ ở chùa Phật Nhật rất hoan hỷ và cho khắc bản. Cơ duyên hưng khởi của Phật pháp chắc chắn nhờ vào lúc này.

Nhưng than ôi! Tập yếu lược đây ví như hạt bụi nhỏ, đối với thể của Luật như núi cao mầu nhiệm. Đây là kết quả do khả năng kém cỏi của tôi, nhưng có thể nói là hết sức mình.

Tôi tự hận, sự hiểu biết của mình quá thô sơ, hành trì lại thiếu kém, nhìn lên rất thẹn với bậc Hiền triết đi trước, nhìn xuống thêm tủi hổ với hàng hậu tấn. Rất mong các bạn lành đồng học, xét chỗ tâm thành của tôi, thương cho sự không bén nhạy lạc hậu của tôi, cùng một lòng, một trí phò trì vận mệnh của Phật pháp, báo đáp phần nào ân đức Phật.

Đầu mùa Xuân năm Tân Mùi, Trí Húc viết tại chùa Cao Đình Cổ Vĩnh Khánh.

NGUYÊN BẠT

Luật Ma-ha Tăng kỳ nói:

Thiện nam tử nào muốn xây dựng Phật pháp, cần phải quyết tâm thọ trì Luật này. Vị nào muốn cho Phật pháp cửu trụ tại thế gian, cần phải quyết tâm thọ trì Luật này. Vị nào tâm sợ sệt vì phạm tội, muốn tìm chỗ nương tựa, cần phải quyết tâm thọ trì Luật này. Vị nào muốn không còn có nghi hối để khỏi phải hỏi người khác, cần phải quyết tâm thọ trì Luật này. Vị nào muốn đi du hóa khắp nơi, không bị trở ngại thì cần phải thọ trì Luật này”.

Luận Tát-bà-đa nói:

Tỳ-ni có bốn nghĩa mà kinh khác không có:

– Một là vùng đất bằng của Phật pháp, các thiện pháp đều sanh trưởng từ đó.

– Hai là tất cả đệ tử của Phật đều y vào luật để sinh hoạt, và tất cả chúng sanh do giới mà có.

– Ba là cửa ngõ đầu tiên để đến Niết-bàn.

– Bốn là xâu chuỗi ngọc để trang nghiêm Phật pháp.

Do đủ bốn nghĩa này nên không có gì quý bằng Luật”.

Than ôi! Lợi ích của giới đâu phải là nhỏ, tại sao cách Phật đã xa, việc nhầm lẫn lại nhiều, và chúng sanh đời mạt pháp ít gặp bậc chơn phong?

Từ khi giới luật truyền vào Trung Quốc, khởi đầu từ ngài Tăng Khải đời Tào Ngụy, ngài Tự Huy và Hoài Tố Luật sư đến nay, những bậc am tường về luật thật là hiếm. Đôi khi có một hai vị Đại sĩ thông suốt hoằng truyền thì đã không được như sư tử ra khỏi hang, chẳng khác nào như con ngỗng chúa chọn sữa uống (chừa nước), gần thì bỏ cương tôn của 5 bộ, mà nhận lấy những cương mục hỏi đáp bên cạnh, chú trọng gấp điều đáng hoãn, hoãn lại điều đáng gấp, tự mâu thuẫn nhau, mất dê ngày càng dài. Do đó, bậc hào kiệt chưa từng hỏi đến. Vậy thì biết nhờ đâu cho mặt trăng giới sáng giữa đêm sâu, duy trì giềng mối cũ khỏi bị đứt tuyệt.

Thọ Trù tôi, đọc kỹ những tài liệu để lại, phát sinh nhiều mối cảm xúc. Tôi thấy sư huynh Trí Húc, nặng tình với Chánh pháp, lòng bi nguyện rất sâu, tham khảo hết chỗ kín đáo của Luật tạng. Tự chọn Tứ phầnlàm cương lĩnh và dựa vào các bộ khác để soi sáng, tìm tận nguồn nước để lấy được cam lồ, góp lại thành nhiều quyển, đều tuân theo lời dạy của Cổ đức, không phải những lời nói ngoa, mong sao ai uống được một giọt, có thể trị hết những bệnh lâu ngày; ai uống no đủ thì bệnh mới không phát sinh. Biển giới sẽ được trong sáng là chính nhờ ở hành động này.

Không biết nhờ đời trước tôi đã làm nhân tốt gì mà nay được dưï phần trong pháp tịch Tỳ-ni? Vì quá vui mừng nên vội nếm trước, và gởi vài lời vào cuối sách này.

Người biết Chánh pháp, ắt không phải vì mưu tính mà làm; kẻ bất tiếu, thì không hùa theo cái đẹp của người khác.

Mùa Xuân năm Canh Ngọ, người em trong Luật học, hậu học U Khê Thọ Trù kính ghi.

(Bài bạt này nằm ở cuối quyển thứ 18 của bộ Tỳ-ni sự nghĩa tập yếu, nay để vào nơi đây cũng theo sự sắp xếp của bản Trùng trị cũ).

TỔNG VẤN BlỆN

HỎI: – Luật học chú trọng đến chỗ tin chắc, và nỗ lực hành trì. Ai giữ được Năm thiên, chắc sanh vào cõi trời cõi người; nhưng khi phước của họ nếu hết, tương lai sẽ ra sao? Người nào tu theo Tông, Giáo: trước hết, phải biết mở mắt ra, sau đó đạo cộng giới 1mới sanh, đó là việc cần gấp. Nguời xưa có nói: Quý ở chỗ thấy tánh, không quý ở hành trì, há không đúng hay sao?

ĐÁP: – Luật học là nhân chánh để xuất thế. Thành tựu giới Ba-la-mật mới đạt đến địa vị Phật-đà. Vậy Luật học đâu phải chỉ là phước baùo của cõi trời, cõi người! Sự kiến tánh của Tông, Giáo tuy rằng giống nhau, nhưng muốn rời giới luật để nói riêng về Giáo và Tông thì đó chỉ là bỏ sự cầu lý, rơi vào ác tri kiến.

Ngài Qui Sơn có nói: “Chưa thân cận và học hỏi theo giới luật thì chơn nghĩa của Tối thượng thừa làm sao thấu triệt được ?”

Tôn giả Kinh Khê nói: “Bốn giới đầu làm cảnh, sáu giới sau quán chung, sự lý tương tức”2.

Nên biết rằng: Thiên và Tụ không thể thiếu sót. Người đời coi thường Sự mà lại muốn đạt đến Lý sâu, xét ra quan niệm này rất hư huyễn, không có cơ sở gì cả. Đã thiếu caûnh quán thì lấy gì để quán? Nhưng dù Tông hay Giáo đều có răn dạy rõ ràng, tại sao không nghĩ đến điều ấy?

Người xưa sở dĩ nói: “Quý ở chỗ thấy tánh, không quý ở hành trì”. Chính vì có thấy tánh tức có hành trì, nhưng có hành trì chưa chắc đã thấy tánh. Nay ta lại cho rằng giới pháp Vô thượng của đức Phật thuộc nhơn, thiên, bỏ cả Luật nghi, chỉ nói suông về Đạo cộng giới, chánh kiến đã bị phá thì hành trì sai là lẽ dĩ nhiên. Như vậy chắc chắn bị đọa trong ba đường ác, tuy muốn sanh vào trời, người nhưng cũng không thể được.

HỎI: – Đời mạt pháp con người căn tánh chậm lụt, chỉ nên nói gọn. Tứ phần luậtvì ai cũng sợ sự phức tạpchi ly của nó, nên chỉ đặt lên chỗ cao mà thờ. Nay bộ Tập yếu này lại trích dẫn thêm các bộ Luật khác càng thêm phiền toái. Tại sao không lấy ngay Giới bổn
Tứ phần
để giải thích gọn các choã nghi ngờ, có hay hơn không?

ĐÁP: – Đời mạt pháp, con người căn tánh chậm lụt, chỉ thích gọn không ưa rộng là một chứng bệnh, cố thủ sự ngu si, không hiểu biết. Càng theo xu hướng ấy càng đi xuống mà thôi, cuối cùng không bao giờ giải tỏa được
sự nghi ngờ. Nay muốn cứu vãn cái khổ nạn ấy, cần phải học rộng, phá bỏ sự hẹp hòi, mới có thể có chỗ y cứ. Nếu chỉ đem Giới bổn Tứ phầngiải thích sơ qua thì làm sao phân tích cho rõ các vấn đề khai, giá, trì, phạm; người ưa chuộng Phật pháp còn khó thông đạt được, huống chi kẻ theo thói biếng nhác, không chịu để ý đến, tới lui sai quấy, có ích lợi gì!

HỎI: – Pháp môn niệm Phật, rộng lớn lại dễ dàng, chỉ tin theo và hành trì là được. Hành giả cố gắng nhất tâm niệm Phật tự nhiên ngăn được điều sai quấy, chận đứng các điều ác, phiền gì phải cần cù cả năm học pháp luật này, danh tướng mênh mông phiền toái, không đơn giản chút nào. Quả vị do trì giới, cao lắm là Thanh văn, rộng lớn gì đâu; như vậy sợ rằng không bằng chuyên chú phát triển một pháp môn vi diệu của Tịnh độ?

ĐÁP: – Trì giới và niệm Phật vốn là một pháp mônchứ không phải hai đường; tịnh giới là nhân, Tịnh độ là quả. Nếu ta gọi việc niệm Phật là đường tắt còn Luật học là đi quanh thì chính ta đã đi ngược lại lời giáo huấn tha thiết cuối cùng của đức Phật thì làm sao thành tựu được niệm Phật tam-muội? Lại nữa, giới như biển không bờ, như báu cầu không chán, sao lại không rộng lớn? Làm là phạm, đình chỉ là trì, bảo đảm giải thoát, sao lại không đơn giản; Thế nên người nhất tâm niệm Phật, tuy có thể ngừa điều sai, chận việc ác, nhưng người chuyên tinh Luật học, thật là kẻ giữ lấy lời dạy sáng ngời của đức Phật. Hiện tại làm hưng thịnh ngôi Tam bảo, khi lâm chung sanh lên cảnh giới thượng thượng phẩm. Sự vi diệu của pháp môn nào, làm sao hơn thế được!

HỎI: – Đức Như Lai giáng sanh ở Ấn Độ, những giới luật thuộc về giá tội đều chế cấm do sự chê trách của cư sĩ đời này, song cũng tùy theo địa phương mà giới luật có thay đổi. Nay ở xứ ta, nếu không tuân hành, chưa chắc cư sĩ đã chê trách. Giả sử bỏ đi các giới vi tế, có gì sai với luật Phật dạy đâu? Lại nữa, nay thời mạt pháp, ngoại duyên hỗ trợ không nhiều, chính nhân bên trong lại mỏng và ít, nên muốn giữ lại tất cả các giới để không phạm, thì làm sao diễn giảng giáo pháp cho rộng rãi. Giữ gìn trọn vẹn các tiểu tiết để mất sự lợi ích lớn lao, đâu phải là bản tâm của Bồ-tát, kẻ chơn chánh học Nhất thừa như vậy sao?

ĐÁP: – Đức Như Lai với tri kiến sâu rộng, Ngài vì
chúng sanh khắp trên đại thiên thế giới chế ra giới luật. Còn lục quần Tỳ-kheo đều là bậcđại quyền Bồ-tát thị hiện, tự đặt mình vào hình thái của chúng sanh đời mạt pháp, nên tạo ra các nhân duyên phạm giới. Chính do
tính người lười biếng, không giữ những giới trọng và giới khinh nên làm cho pháp của Phật suy đồi. Nay muốn hoằng truyền Tông, diễn thuyết Giáo nghĩa đều phải lấy trì giới làm gốc. Vị nào giới luật tinh nghiêm thì chánh nhân bên trong đôn hậu, phụ duyên bên ngoài tự đầy đủ; trong tướng bạch hào 3một phần sáng rực, quả quyết không phải là lời nói hư cuồng. Nếu ta cho giới là tiểu tiết, tứùc hủy báng Chánh pháp. Người như vậy thì giảng về Tông, thuyết về Giáo đều là chuyện vu vơ vô ích. Nếu có thu hoạch được ảnh hưởng ngoại duyên nào, thì tất cả đều là ma nghiệp có ích lợi gì cho Chánh pháp.

HỎI: – Chư Tổ ở Tây Trúc đều tinh thông tam học. Tại đất nước thô lậu này, thời gian cách Phật lại xa, tri kiến mọi người lại hẹp hòi, từ đời Đường, Tống trở lại đây có vài vị Tôn túc, đạo phong sáng tỏ dưới rừng cây, bên dòng suối nước, núp dưới vài tấm phên, với một cây cuốc tự sống một đời thuần tịnh. Đến khi các vị ấy ra lãnh chúng thì đưa ra quy tắc: “Một ngày không làm, một ngày không ăn”, đến lúc độ người thì lại dùng
tiếng hét và gậy làm phương tiện để đưa người hướng thượng. Tất cả những phương tiện ấy đều không tương ưng với giới luật. Thế mà những người hảo tâm xuất gia đều theo lối hành cước 4vào núi, rồi sau đó lên tòa đắp y, những người sau này đều bắt chước theo cách ấy. Ngày nay bao nhiêu người làm theo như Tổ, hoï có thật là Tỳ-kheo không? Nếu không phải là Tỳ-kheo thì làm sao kế thừa được địa vị của chư Tổ? Nếu họ là Tỳ-kheo tại sao không tuân theo Luật chế? Lại nữa, những người kế thừa địa vị của chư Tổ xem nhẹ Luật học, không biết chư Tổ đi trước có xem nhẹ Luật học như vậy hay không? Lại nữa, ngày nay những người kế thừa địa vị chư Tổ, tuy không tuân theo giới luật nhưng họ lại truyền giới cho người; không rõ chư Tổ đi trước có truyền giới cho người đi theo kiểu đó hay không?

ĐÁP: – Chư Tổ đi trước có 3 hạng:

Bậc thứ nhất,nghiêm trì giới luật thanh tịnh làm mô phạm cho ba cõi, như các ngài: Huệ Viễn, Trí Giả, Tả Khê, Vĩnh Gia, Kinh Khê, Đại Mai, Vĩnh Minh, Giác Phạm, Cao Phong, Trung Phong, Sở Thạch v.v… Ngài Giác Phạm không ăn phi thời, ngài Trung Phong mùa Đông mùa Hạ chỉ mặc một y. Những tấm gương sáng đó được ghi đầy đủ rõ ràng trong sử sách. Từ xưa đến nay, những bậc Tri thức như vậy cũng nhiều, là chỗ đáng kính ngưỡng để chúng ta bắt chước theo.

Bậc thứ hai, sống trong đời mạt pháp, ở vào hoàn cảnh bất đắc dĩ, tuân theo di mệnh của Phật, song lại lược bỏ các giới vi tế, ở chùa thời cày cấy trồng trọt, lãnh chúng thời khai khẩn ruộng đất. Nhưng đối với các giới không ăn phi thời v.v… các vị ấy vẫn tuân hành đầy đủ. Trong Bách Trượng thanh quygọi bữa ăn chiều là thuốc chữa bệnh mà không gọi là ăn cháo, chỉ cho là uống thuốc phi thời, thuốc bảy ngày, thuốc trọn đời mà thôi.

Lại nữa, ngài Đức Sơn đem cất bình bát vì thấy mặt trời đã xế. Từ những chi tiết đó, nên biết rằng vấn đề không ăn phi thời đã được sáng tỏ; nhưng những bậc Tri thức ấy đâu dám vì người truyền giới. Cho nên, từ đời Đường, Tống trở lại, Thiền sư thì có chùa của Thiền sư, Giảng sư thì có chùa của Giảng sư, Luật sư thì có chùa của Luật sư. Những người khi mới xuất gia phần đông học luật đầu tiên, ai có sở đắc về luật thì lấy luật làm tông phái của mình, nếu ai không có sở đắc về luật thì theo học giáo thuyết hay tham thiền, nhưng họ chỉ bỏ các giới nhỏ nhặt chứ không bỏ các trọng giới và tánh giới. Nếu ai không học luật thì tìm đến Thiền giáo để tham học, đây gọi là thừa gấp giới hoãn, nhưng vẫn giữ gìn 5 giới căn bản, tránh việc không hủy báng hay phạm trọng giới, các vị ấy vẫn không dám xưng là Tỳ-kheo và chắc chắn không dám khinh thường người học luật, họ tự thẹn là không thể hành trì theo giới luật, lấy đó làm đức tàm quý. Những vị ấy khi nhập thế tiếp độ mọi người thì họ thọ giới lại, để tánh giới và giá giới5đều thanh tịnh như đức Lục Tổ Huệ Năng v.v… Hoặc tự tu tự chứng, gặp cơ duyên chỉ tiếp độ một lần như ngài Thọ Xương. Có người hỏi ngài Thọ Xương:

“Phật chế Tỳ-kheo không được đào đất, tổn thương cây cỏ. Tại sao ngày nay ngài tự cày, tự gieo cây hạt, tự làm cỏ, tự gặt hái?”

Ngài đáp:

“Chúng tôi chỉ ngộ được tâm Phật, truyền thừa ý chỉ của chư Tổ sư, chỉ bày cho người có duyên thấy được tâm tánh. Nếu đem Chánh pháp mà xét thì chúng tôi chỉ có thể gọi là cư sĩ trọc đầu, chứ đâu xứng danh Tỳ-kheo”.

Lại hỏi:

“Giả như ngày nay có người hành trì được giới Tỳ-kheo đúng như Pháp thì ngài đối với vị ấy thế nào?”

Ngài đáp:

“Nếu thật có hạng người như vậy, nên kính họ như Phật, hầu hạ đúng như pháp thờ thầy. Chúng tôi không phải không làm, mà thật sự chưa thể làm được vậy”.

Lại như, Đại sư Tử Bá suốt đời chỉ ăn cháo buổi sáng, ăn cơm buổi trưa, ngoài ra không ăn tạp, hơn 40 năm không nằm, hành trì như vậy mà ngài còn cho rằng chưa giữ được các giới vi tế, nên trọn đời không dám truyền giới Sa-di hay Tỳ-kheo cho người khác. Trường hợp bất đắc dĩ, ngài chỉ truyền 5 giới mà thôi.

Than ôi! Các vị Tổ sư trên đã tôn trọng giới luật như vậy, đâu dám xem thường, nếu ai khinh thường giới luật chắc chắn thuộc loại tà kiến, chẳng phải chơn thật là bậc mô phạm.

Bậc thứ ba, thì đại vận dụng phương tiện, xem xét các cơ duyên lợi ích, phá nghi chấp cho người, nên không câu chấp vào quy tắc thường áp dụng. Như ngài Văn-thù Bồ-tát cầm gươm bức Phật6ba nơi phá hạ. Tỳ-kheo Trùng Thắng cùng người đồng nữ ngồi khiến cho họ chứng quả Vô sanh. Đến như Hàn Sơn, Thập Đắc mắng cả Luật chủ, Quy Tông Nam Tuyền chặt rắn, giết mèo… Những hành động ấy, vào lúc quyền hiện không thể không làm. Như thầy thuốc giỏi dùng vị tỳ sương 7để chữa bệnh. Đại tướng lập trận đồ để dẹp giặc, chẳng qua là chỉ dùng trong nhất thời, không thể đưa vào quy tắc của sách vở cần yếu hàng ngày.

Lại như những hành động la Phật, mắng Tổ, đánh thật đau, hét thật lớn, đều là việc bất đắc dĩ phải sử dụng. Thường gọi: “Binh là vật bất tường” chính là nghĩa đây vậy. Không phải như dùng gạo, đậu, lúa, bắp để so sánh được. Cách sử dụng hình như ngược lại với luật, nhưng người trì luật chơn chánh đã nắm được ý chỉ cuûa luật. Trường hợp như Mạt-lợi phu nhơn uống rượu để cứu người khỏi chết; đức Phật tán thán phu nhơn là người giữ trai giới chơn thật.

Bồ-tát giới bổn chép: Bồ-tát thấy việc thiết yếu phải làm thì được phép sát sanh, ăn trộm… hành động có mục đích lợi ích như vậy, Bồ-tát không bị phạm giới, màcòn sanh trưởng nhiều phước đức. Nếu như sử dụng sai chỗ thì sẽ tạo ra nhận định sai lầm cho người đi sau, tai hại không nhỏ, như Ưu Mạnh bắt chước Thúc Ngao 8.

Những kẻ Tông chẳng phải Tông, Luật lại không phải Luật, hủy báng Đại Bát-nhã, gây nghi ngờ, tạo sai lầm cho người hậu thế, quả báo trong ba đường ác làm sao tránh khỏi; giả như vì khuyến dụ kẻ ngu si hướng về Tam bảo, mà làm các phước nghiệp tà mạng, do phước lực này giữ gìn không bị đọa lạc ngay, nhưng cuối cùng vẫn là quyến thuộc của ma vương ngoại đạo, không phải là đệ tử của Phật.

Trong đời mạt pháp loại ma tà như vậy rất nhiều. Chúng dối gạt thế gian, lại nhờ sức hỗ trợ của ma vương nên được cúng dường đầy đủ. Chúng thường tụ tập cả trăm ngàn quyến thuộc con cháu của chúng, phân bổ khắp thế gian, chúng hủy giới luật của Như Lai. Người ngu không hiểu biết tham muốn danh tiếng của chúng nên tranh nhau bắt chước, làm cho những người hảo tâm xuất gia đều bị đọa lạc vào bè đảng của chúng, họ muốn cầu thoát ra, lại bị rơi vào, thật đau lòng biết
bao! Song những người ấy, nhờ Tam bảo làm cảnh sở duyên, nên khi tội báo hết lại nhờ vào năng lực của Phật Pháp Tăng độ thoát. Như người bị té trên đất nhờ dựa vào đất được đứng dậy. Những người này so với những người không nghe danh hiệu Tam bảo còn hơn một bậc. Thế nên Ma vương nói với đức Phật:

“Chúng tôi ở trong đời mạt pháp của Ngài, sẽ sai quyến thuộc của chúng tôi, ăn cơm của Ngài, mặc áo của Ngài, ở nhà của Ngài để phá hoại giáo pháp của Ngài”.

Đức Phật bảo Ma vương rằng:

“Các ngươi chỉ tự phá lấy mình chứ pháp của Ta không thể bị phá hoại được”.

Nay ai muốn không bị đọa vào ba đường ác, đi thẳng lên quả Thánh, thì trì giới là việc làm hàng đầu. Nếu ai không thể giữ giới được, nên tán thán giới, tự thân phải tàm quý.

Ai tự mình đã mang danh thọ giới, sao lại xem thường giáo pháp? Tự thân không giưõ giới tinh nghiêm mà lại làm thầy truyền giới cho người, đã vì người truyền giới, lại không dạy người học giới đúng như pháp, thế mà những vị này còn nói: “Giới luật là Tiểu thừa, không cần phải học tập”. Những người này chắc chắn phải đọa vào tam đồ, làm quyến thuộc của ma, tự mình thọ lấy cái khổ đã tạo ra, không ai có thể cứu được. Tuy vậy, cuối cùng ai cũng có thể thành Phật được. Tôi đâu dám khinh thường họ!

PHÀM LỆ

1)Văn dịch trong Luật tạng rất phức tạp, nay muốn cho người học dễ nắm được, nên tôi nhằm vào ý nghĩa chủ yếu, lược bớt văn tự. Văn tuy được rút gọn, nhưng ý nghĩa chính vẫn giữ nguyên, nếu vị nào không tin, xin cứ đem Luật tạng ra đối chiếu.

2)Sau khi đức Như Lai diệt độ, Luật tạng được kiết tập, ban đầu không có chủ trương riêng của từng bộ phái. Sau này do kiến giải sai khác, nên phân thành nhiều bộ, khi đã phân thành bộ phái, tất nhiên ai đi theo chủ trương nấy. Như ngài Nghĩa Tịnh chỉ hoằng dương luật Căn bản, ngài Hoài Tố đề cao luật Tứ phần, cho nên khó mà hội thông được.

Sợ rằng: Có học xứ bị bên này bỏ ra, lại được bên kia thu dụng, hoặc bỏ giới giálấy giới khai, đưa đến tình trạng chú trọng giới khinh, xem thường giới trọng. Tôi phỏng theo ý chỉ của Luật sư Nam Sơn để đả thông tất cả sự dị đồng của các bộ. Chính yếu là sử dụng những ý kiến hợp lý nhất, không dựa vào cơ sở nào hết, như tránh né, thu dụng hoặc loại bỏ. Mục đích chính là hoàn thành việc tổng hợp những quan điểm đúng của các bộ phái. Ngõ hầu khế hợp được bản ý của Như Lai.

HỎI: – Tuyên luật sư sử dụng các bộ phái còn bị
Hoài Tố luật sư chê. Nay y cứ vào đâu để làm cơ sở cho việc lấy, bỏ, đúng, sai? Nếu dựa vào sự suy luận
của phàm phu thì liệu có đúng với quy định của Phật không?

ĐÁP: – Do sự tranh chấp nên sanh ra nhiều bộ
phái, hiện tượng đó là sự suy thoái của đạo pháp. Sử dụng những sở trường của các bộ, chính là ý muốn tập thành. Tuy Hoài Tố chê, có chỗ cũng có căn cứ, nhưng chẳng lẽ Luật học của Tuyên luật sư sai heát hay sao? Huống chi Phật có dạy rõ: “Người nhiều trí tuệ có thể bỏ, có thể lấy, nhưng kẻ ngu si không thể phân biệt được”. Thế nên ở đây, lấy sự phân minh để tập đại thành là nghĩ đến người đi sau. Cho nên bộ Tập yếunày sử dụng sở trường của các bộ, là để đủ điều kiện tham khảo. Hơn nữa, vì ngược dòng tìm đến tận nguồn, nên đâu phải căn cứ trên những suy luận riêng tư để lấy hay bỏ một cách tùy tiện.

3)Riêng luật Thiện kiếnphân giá tội và tánh tội 1nhưng bên dưới mỗi giới có chỗ phân có chỗ không. Nay tôi theo nguyên bản không dám thêm vào, ai muốn đối chiếu nguyên bản thì có thế thấy rõ. Lại nữa, theo luật Thiện kiếngọi là chếtội, thì ở đây gọi là giátội, chữ dùng tuy khác, ý nghĩa như nhau.

4) Theo sau mỗi giới, đều có các phần: Duyên khởi, thích nghĩa, đưa ra sự khinh trọng của tướng tội, hỏi và đáp để nêu lên lẽ đúng, lẽ sai. Sau hết dẫn chứng các bộ Luật oai nghi khác, những điều tương tự giới đó cũng phụ lục vào. Sáu phần này có khi nêu ra hết, có khi giảm bớt, vì thấy không cần thiết, nên không liệt kê chi tiết mà chỉ sử dụng sáu từ: Duyên, thích, tướng, biện, chứng và phụ, để nêu lên từng phần muốn nói.

5)Xét về mặt dịch thuật các bộ Luật, có trường hợp sử dụng từ ngữ khác nhau nhưng ý nghĩa đồng, hoặc lời văn khó hiểu. Những trường hợp như vậy có thể chú thích được thì chú thích, nếu không thể chú thích thì đưa vào cuối mỗi quyển để tiện tham khảo.

6) Giá tội của Thanh-văn, Đại thừa đồng học. Cho đến những điều vì chúng sanh nên phương tiện mở ra, đều có chứng cứ rõ ràng trong kinh, không thể lẫn lộn được. Nay y cứ kinh Phạm võngTừ thị giới bổn, mỗi giới chỉ thuyết minh phần chính. Đó là phỏng theo ý của Sớ giải Thiên Thai.

ĐỀ CƯƠNG

1)Năm phần Pháp thân đều y cứ theo giới, ba môn học Vô lậu, lấy giới làm đầu, không một đức Như Lai nào không đủ giới thể, không một Bồ-tát nào không tu giới Ba-la-mật, không một kinh điển nào không đề cao giới pháp, không vị Thánh, bậc Hiền nào không giữ giới hạnh trang nghiêm. Trì giới giống như đất, tất cả thiện pháp đều từ đó mà sanh trưởng. Trì giới như thành quách, dựa vào đó mà xa lìa được ma chướng. Luận về sự thù thắng siêu việt của giới thì một người phàm phu khi được thọ giới, liền được gọi ngay là phước điền của thế gian; còn đạt đến chỗ cùng tận của giới thì chỉ có Phật mới được gọi là bậc tròn đầy về giới.

Bốn tầng lầu cao, mỗi bậc là cảnh giới viên đốn. Tám vạn tế hạnh, mỗi hạnh cùng pháp giới tương ưng. Nếu không trì giới thì dù có học tập giáo lý, tọa thiền, tạo các phước nghiệp đều là nếp sống của ma và rơi vào bè đảng của chúng. Thế nên ngườí hảo tâm, xuất gia, nhất thiết phải bắt đầu từ trì giới, và sau đó việc tự lợi lợi tha, các pháp mới thành tựu. Nếu bỏ con đường thông suốt này, thì không còn lối đi nào ngắn hơn nữa.

HỎI: – Tạng luật của Tỳ-kheo vốn thuộc Thanh văn, giới kinh Phạm võngmới là đại giáo, nay lại noùi rằng: Bốn cấp bậc đều là cảnh viên đốn, làm sao phân rõ được Đại và Tiểu thừa? Lại nữa, đã gọi là viên đốn thì một cấp bậc là đủ rồi, cần gì phải bốn cấp bậc.

ĐÁP: – Người viên, khi thọ pháp, không pháp nào không viên. Ai đã nhận chân được chỉ thú của kinh Pháp hoa mở bày thì nhất sắc, nhất hương đều là trung đạo. Như vậy, có giáo pháp nào là không viên đốn? Pháp hoa huyền nghĩa nói: Khai thô (hiển) thì Luật học là Đại thừa. Thức xoa, Thức xoa tức là nghĩa thứ nhất của Đại thừa. Ánh sáng không phải là xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện, 250 giới đều là Đại thừa. Như vậy, sao lại có thô giới khác với diệu giới? Giới đã diệu thì người thọ giới cũng diệu, nên câu “Ngươi thật là con ta” chính là nghĩa này. Đây gọi là diệu giới, không còn đối đãi.

Than ôi! Do đây, quán sát từng cấp bậc đều là viên đốn, một và nhiều không ngại nhau, mới thành bất khả tư nghì. Nếu cho rằng một loạt là đủ, thì như kinh Hoa nghiêmcó bảy chỗ, chín hội1. Vậy, ta có thể đặt vấn đề là một chỗ, một hội là đủ có được không?

HỎI: – Năm giới, mười giới, Tỳ-kheo giới, Bồ-tát giới dụ như bốn cấp bậc vào nhà lầu. Thế nên nói rằng: Không thọ năm giới mà thọ mười giới, cho đến không thọ Tỳ-kheo giới mà thọ Bồ-tát giới, việc làm ấy không đúng. Ý nghĩa thứ lớp đã rõ ràng như vậy, huống chi ngày nay, cho Sa-di thọ giới Bồ-tát, há không tự làm ngược lại và vượt lên lời dạy chơn thật của Phật hay
sao?

ĐÁP: – Dụ về nhà lầu, chẳng qua thuyết minh tiến trình của một lần đi lên, nhưng nếu chấp hành một cách cứng ngắt như vậy thì Ưu-bà-tắc cũng không được thọ Bồ-tát giới. Sự thật thì Ưu-bà-tắc có thể thọ giới được vậy tại sao không cho phép Sa-di thọ? không lẽ Sa-di lại không bằng Ưu-bà-tắc hay sao? Giới Bồ-tát theo Nghĩa sớthì cộng thông cả bảy chúng, mà các chùa đại và tiểu ở Tây Trúc chia riêng, như vậy chẳng lẽ các chùa của Đại thừa lại không có Sa-di hay sao?

HỎI: – Ba môn, Thiền, Giáo, Luật cũng như lan mùa Xuân, cúc mùa Thu, đều phô trương cái đẹp của mình. Nay chỉ lấy giới làm đường đi chung, tại sao từ xưa lại lập ra ba Tông?

ĐÁP: – Hai mươi tám vị Tổ ở Tây Vực đều bảo trì ba Tạng, khi Phật pháp lưu truyền đến Đông Độ thì mới phân chia thành môn phái, nhưng không một vị Thiền sư nào, một vị Giảng chủ nào không lấy giới luật để thúc liễm thân tâm, ngõ hầu không gây ác nghiệp.

2)Người chưa học giới, phần nhiều sợ giữ khó khăn, nguyên nhân chính là họ không hiểu giới pháp nên sanh lòng thối thất. Nếu ai học giới này, mới thấy rằng đức Như Lai trí tuệ vô cùng, hiểu tận lòng người. Ngài ngăn ngừa và mở ra rất đúng chỗ, nên sự giữ giới không khó khăn gì cả.

Tôi nhớ lúc mới xuất gia, tự thị cho rằng căn bản mình thanh tịnh, rất sợ sự hành trì bó buộc với nhiều chi tiết, nên mười giới Sa-di tôi còn chẳng chịu thọ, huống chi là giới Tỳ-kheo. Sau này, nhân theo đại chúng ở Tùng lâm nên gượng thọ mười giới. Sau đó xem qua giới bổn, cho đến học Luật tạng mới tin rằng: muốn được tự tại không còn sợ gì, thì cần phải thông suốt giới luật.

Người chưa học luật, gặp việc gì cuõng bế tắc cả. Nhà Nho nói: “Người không học lễ, không thể lập thân.” Lời nói ấy đúng thay!

3)Xứ Tây Trúc khí hậu nóng và ẩm, cây cỏ không sanh trưởng được, nên đức Phật cho phép Tỳ-kheo ăn 5 thứ tịnh nhục. Xứ này rau trái rất nhiều, quyết định không đuợc ăn thịt. Lại nữa, các nước ở Tây Vực, nếu thực hành theo pháp Tiểu thừa mới ăn 5 thứ tịnh nhục, còn các người hành trì theo Đại thừa, đều cấm không cho ăn.

Nay tại xứ này giáo pháp Đại thừa đã truyền khắp, nếu Tỳ-kheo ăn thịt, nhất định tăng thêm sự hủy báng. Để ngăn sự chê bai của thế gian, nên chú trọng việc này, dù ai chưa thọ giới Bồ-tát cũng không được ăn thịt, nếu ăn thịt thì không phải nếp sống của Sa-môn.

4)Hai tạng Kinh và Luận quý ở chỗ lưu thông, riêng có tạng Luật rất quý giá và kín đáo, vì luật là pháp của Đại Tăng không phải dành cho người ngoài.

Luật Căn bảnchép: “Người tại gia chỉ được nghe hai tạng Kinh và Luận, tạng Luật là phép tắc của người xuất gia không được xem”.

Bài tựa của kinh Giới nhân duyênchép: “Tại Thiên Trúc, luật được giữ kín, chỉ có bậc Đầu-đà và những vị có trí tuệ vững chắc mới được phép mở xem và cùng truyền cho nhau”.

Ngài Da-xá dặn đi dặn lại rất kỹ việc này: “Con người nên bảo họ làm chứ không nên cho họ biết”. Câu nói này thật là chí lý chí thiết, cần lưu ý và cẩn thận mong rằng những vị đồng giới phải cẩn thận vấn đề truyền thọ. Ai chưa đủ năm hạ, chẳng phải người trì luật, chớ nên cho họ biết. Xem rõ hai Luật đều nói như vậy, nên biết việc này phải cẩn thận, nếu để Sa-di hiểu rõ Năm thiên thì sẽ thành già nạn khi họ thọ Cụ túc giới.

Bộ Tập yếunày đặc biệt dành cho người thích gọn, tiện dụng khi hành trì. Chớ nên cho người chưa thọ giới xem trước. Nếu Sa-di trao cho nhau xem, phải trách họ và ngăn cản ngay, nếu không làm như vậy ta và họ đều có tội.

HỎI: – Đức Thế Tôn giảng pháp như một trận mưa
làm thấm ướt khắp nơi, người nào thấm nhuần đều được lợi ích. Ngày xưa có người nghe nửa bài kệ trong kinh, được thoát khỏi tội đầu thai làm chó, và trâu chở đại kinh, đời sau được sanh làm Sa-môn. Như vậy, tại sao Tạng luật lại cho là quý báu và giữ kín? Chẳng lẽ luật không có lợi ích cho người, hay là quý vị không muốn đem luật làm lợi ích cho mọi người? Lại nữa, giả như có người chưa thọ Cụ túc giới, phát tâm duyệt Tạng luật, không biết Phật cấm chỗ nào không được đọc. Lại như những người viết chép, khắc bản inthì phải xem qua, giả như sau này họ phát tâm thọ giới, nếu vì những người aáy cho thọ giới thì họ có mắc trọng nạn hay không? Nếu điều đó là trọng nạn thì trong Phật pháp cũng có những hạn chế và tác dụng ngược lại “Cam lồ biến thành độc dược?”

ĐÁP: – Kinh điển quý ở chỗ lưu thông, nhờ thế nên
thành chủng tử của văn huân, còn Luật quý báu ở chỗ giữ kín nên ngăn ngừa được cái nạn của tặc trụ. Một bên là giữ kín, một bên là phơi bày, đều là nằm trong Tứ tất-đàn của Như Lai, cho đến như người không biết gì mà lầm xem hay xem qua khi chép, khắc, in… thì đâu có tâm trộm pháp, tất nhiên không liệt vào trường hợp bị trọng nạn. Nhưng những người chép hay khắc chưa hiểu rõ được thì còn có thể dung thứ, còn như người xem mà hiểu rõ thì phải ngăn cấm. Vì vậy, đối với những người biết pháp cần phải khéo léo hướng dẫn cho họ.

HỎI: – Các thiên và tụ của luật đã không cho Cư sĩ và Sa-di được biết, tại sao trên hội Niết-bàn đức Thế Tôn nói với đại chúng trời, người về 5 thiên 7 tụ và phó chúc cho đời sau không được vi phạm, chẳng lẽ trong kinh Niết-bàn nói riêng cho Tỳ-kheo và không thể lưu thông trong thế gian hay sao?

ĐÁP: – Hội Niết-bàn thuần là chúng đại Bồ-tát, chắc chắn không có kẻ ác trộm pháp, nên đức Phật đối với tên của thiên và tụ không kiêng cữ. Tuy nhiên Phật chỉ nói ra tên chứ không trình bày sự nghĩa, nếu ai muốn giảng kinh Niết-bàncũng không nên giải thích chi tiết.

HỎI: – Sa-di hiểu được 5 thiên thì thành già nạn khi thọ giới Cụ túc. Nay giả như có người muốn thọ giới Cụ túc nhưng trước đây lỡ đọc 5 thiên thì có thành già nạn không?

ĐÁP: – Giới pháp của Tỳ-kheo chỉ cho phép hành
trì sau khi thọ. Trước khi thọ giới không được đọc giới bổn, nếu không biết mà xem nhầm thì có thể tha thứ được, còn biết mà cố ý vi phạm thì khó có thể bỏ qua.

5)Giới thể của Tỳ-kheo rất tôn quý, nếp sống của người thế tục rất ô nhiễm. Tụng kinh, lễ sám còn có thể gọi là pháp thí, nhưng thổi tiêu, đánh bạt thì khác gì kẻ xướng ca? Trường hợp trong kinh Pháp hoacho phép làm như vậy để cúng dường Phật thì vốn là bảo người khác làm, chứ đã mang hình dáng trang nghiêm của Tăng sĩ, sao lại tự mình làm nhưõng điệu bộ khó coi như vậy! Nếu am viện nào muốn thay đổi nếp sống, theo Thiền tông thì cũng không được sử dụng các loại âm nhạc, nếu ai không từ bỏ thì trái với những quy định của Phật.

HỎI: – Nếu cho rằng việc thổi tiêu, gõ bạt cũng giống như hát xướng, nhưng truyện Ký quicó ghi: “Đại hội Tự tứ có gõ nhạc, đánh trống, treo tràng hoa, đi hành hương các miếu thờ”. Như vậy, xét về nội dung thì khác gì thổi tiêu, gõ bạt, tại sao lại không cho? Giả sử bảo người khác làm, có khác gì mình làm mà lại không phạm tội?

ĐÁP: – Tội ngũ nghịch, thập ác là tánh tội của thế gian, nên bảo người khác làm hay tự mình làm đều chịu quả báo như nhau. Nay việc ca hát, xướng múa là Giá tội của người xuất gia, còn bảo người đánh nhạc để cúng dường thì đó là phước nghiệp, việc này không thể
xem là tánh tội được.

6) Giới không ăn phi thời, tất cả kinh, luật đều nghiêm cấm rõ ràng và đầy đủ, không một bộ luật nào khai cho giới này. Câu nói: “Ăn quá ngọ là dược thạch”, không phải lời của Phật dạy, đó là quyền xảo của người xưa, nếu thân thể yếu ớt nhiều bệnh thì cho dùng nước phi thời, nước bảy ngày, thuốc trọn đời, có thể đáp ứng sự suy yếu của cơ thể. Tại sao lại cam tâm phá giới
này? Trừ trường hợp vì nhân duyên mất mạng không còn cách nào để bảo tồn sinh mạng thì hoặc là xả giới Tỳ-kheo, Sa-di, chỉ làm một người cận trú Bồ-tát, hoặc cứ 15 ngày hàng tháng thành khẩn sám hối, nguyện không làm Giới sư thì có thể được.

HỎI: – Giới không ăn phi thời còn gọi là trai, chắc chắn không được phạm rồi. Nhưng những bậc Tri thức xưa nay, phần nhiều không thể giữ được. Nếu như người nào, các giới căn bản đã thanh tịnh, chẳng lẽ bị đọa vì các giới khác không thanh tịnh hay sao?

ĐÁP: – Phá giới phá trai đều gọi là ác pháp, nếu chỉ giữ giới căn bản, thà đừng thọ dụng của tín thí. Từ xưa đến nay, những bậc Tri thức chơn chánh theo khuynh hướng “Thừa cấp giới hoãn”, đều biết đức tàm quý, không làm Giới sư như ngài Tử Bá, Thọ Xương. Những bậc Tri thức gần đây không tuân theo giới vi tế, đã làm thầy mọi người một cách sai lầm, nếu họ chưa bị đọa lạc có thể nhờ phước nghiệp đặc biệt nào đó bảo trì. Ngài Huệ Viễn cương quyết từ chối uống nước mật, ngài Cao Phong chỉ ăn một bữa, ngài Đạt Quán quá ngọ không nếm một thứ gì cả. Các ngài danh túc về Thiền giáo từ trước, giữ gìn trai giới thanh tịnh rất nhiều, chính là giữ gìn giáo. Ta không thể học theo kẻ Tri thức đời sau, cầu lợi một cách bẩn thỉu.

7)Trong luật quy định Tỳ-kheo chưa đủ 10 hạ không được phép làm Hòa thượng hay y chỉ A-xà-lê, nếu vị nào vội vã làm thầy, đó là người biết pháp mà lạm pháp.

HỎI: – Bây giờ thời mạt pháp, mạng người vô thường, thân như sương buổi sớm, làm sao có thể chờ đợi đúng lúc? Hoặc là có thể nào mở ra một trường hợp ngoại lệ để Tăng bảo không bị đoạn tuyệt hay không?

ĐÁP: – Do đời mạt pháp không y theo luật định, Tăng luân suy đồi, nên thành suy giảm như thế. Nay muốn phục hưng lại phải tuân theo sự quy định của Phật. Ai muốn độ người xuất gia, ít nhất phải đủ 10 hạ, biết rõ hai bộ luật của Tăng và Ni.

8)Theo luật, mỗi ngày chia làm ba thời, cho phép hai thời học nội điển, một thời còn lại học sách vở khác, thuộc sách ngoài. Những người lợi căn, có thể dựa vào đó để hàng phục ngoại đạo, vì các nước ở Tây Vực rất nhiều ngoại đạo chống đối Phật pháp. Ở xứ này, việc ấy không đối tượng, nên vị nào chỉ chuyên tâm theo việc chính của mình thì hàng Cư sĩ càng thêm kính trọng. Như ai đắm nhiễm thơ văn thì người giỏi được đời thương cảm tổn và kẻ dở bị chê bai. Tôi chỉ thấy họ bị người ngoài hàng phục họ, chứ nào thấy họ hàng phục được ai đâu. Vị nào căn cơ có hạn, thì giờ không nhiều, phải mau học việc chánh yếu, cho rõ ràng thông suốt, còn sợ không kịp thì giờ. Nếu tham đắm thơ văn chắc chắn không là người giới tử chơn thật.

9)Luật này là nền tảng của định tuệ, là gốc của giải thoát. Nền móng xây xong, nhà cửa làm theo thiết kế, gốc cây đã vững thì đến khi trổ hoa kết trái lẽ tất nhiên hơn nhiều. Nếu không rèn luyện nội tâm, mà chỉ trang sức hình tướng bên ngoài thì ngược với nhơn chánh thọ giới, vĩnh viễn đoạn tuyệt diệu quả Niết-bàn.

HỎI: – Giới là nền móng của định tuệ, là gốc của giải thoát. Không xây nền móng, tất nhiên không xây nhà được. Nhưng nếu chỉ có nền móng thì chưa phải là hoàn thành toàn bộ, nên cần phải lấy việc học giáo nghĩa, tham thiền để đạt đến cứu cánh, chẳng lẽ chỉ có luật mới đạt đến cứu cánh hay sao?

ĐÁP: – Thọ được Luật nghi, đó chính là nền móng, để Định cộng giới 2và Đạo cộng giới hoàn thành, cho nên mới nói: Cần phải rèn luyện nội taâm. Như phần đại tiểu Kiền-độ trình bày: Ban đầu hành giả tu tập Thánh giới để đạt đến Ngũ thông, Tam minh, tất cả đều thuộc về thật nghĩa của giới. Như vậy, lại có thể tìm cầu cứu cánh nào bên ngoài luật hay sao?

10)Giới luật không hạn chế ở Thanh-văn, nếu ai phát tâm ắt bằng bậc Đại sĩ. Vả lại, đủ các giới hạnh mới là chánh nhơn của thượng phẩm.

Niệm Phật được độ thoát, thời nay chính là lúc tin vào sự ghi chép, nếu không về được nơi an lạc thì chưa hoàn toàn tuân theo lời Phật dạy. Mong rằng những vị đồng tu hãy biết rõ nơi hướng về.

HỎI: – Đầy đủ các giới hạnh, tất nhiên là đủ điều kiện để được sanh thượng phẩm thượng sanh và sanh vào một trong ba loại chúng sanh. Trì giới giống như mặt đất, tất cả thiện pháp đều sanh thành từ đóù. Nếu Định cộng và Đạo cộng đều bao hàm đầy đuû thì cần gì phải niệm Phật? Lại nữa, niệm Phật là pháp môn ngắn nhất để ra khỏi ba cõi, khi lâm chung chỉ cần 10 niệm, tức được vãng sanh, cần gì phải hành trì giới tướng cho phiền phức? Cả hai pháp môn đều là đường tắt, chỉ cần đi một đường là đến đích, cần gì phải bước cả hai đường mới gọi là hoàn toàn tuân theo lời Phật dạy?

ĐÁP: – Định cộng và Đạo cộng tất nhiên có khả
năng thoát khỏi sanh tử, nhưng nếu không nguyện sanh về Tịnh độ thì đương nhiên chỉ sanh về cõi phương tiện uế độ mà thôi. Còn nếu trì giới kiêm niệm Phật, có thể đoạn được thông hoặc (kiến tư hoặc) và biệt hoặc (trần sa, vô minh), đương nhiên có thể sanh vào ba cõi Tịnh độ: Phương tiện, Thật báo và Tịch quang Tịnh độ. Giả như chưa đoạn được hoặc, cũng có thể sinh vào cõi Đồng cư Tịnh độ. Lại nữa, niệm Phật để tâm được tịnh, đó là Vô thượng diệu giới. Nếu không tuân theo lời dạy “niệm Phật được giải thoát” thì cũng chính là đi ngược lời dạy của Phật, giới luật cũng chê trách điều đó. Nhưng nếu ỷ lại vào con
đường tắc, 10 niệm vãng sanh khinh thường giới tướng cho là phiền phức, cũng không phải là người niệm Phật chơn chánh, 10 niệm lúc lâm chung khó thành tựu. Thế nên người tu cần phải lấy Tịnh giới làm nhân, Tịnh độ làm quả, mới lấy việc chính yếu để giải thoát; đây chính là một con đường thanh tịnh sao gọi là hai đường ư?

11)Bộ Tập yếunày chỉ đáp ứng cho việc tự lợi, nếu vị nào muốn hoằng truyền luật thì cần phải tham khảo hết Tạng luật, mới có thể hiểu rõ hết nguồn gốc, mà chỉ bày lại cho người sau. Đã là bậc thầy mô phạm, đâu có thể cho phép chỉ chọn sự tóm lược mà bỏ đi sự rõ ràng đầy đủ. Nay nếu vị nào y cứ giới luật làm cơ sở, riêng tu giáo quán Thiền tông v.v… trước hết cần phải thuộc lòng chánh văn của giới bổn, sau đó y cứ giới bổn nghiên cứu cho thấu triệt những chỗ vi tế. Những vị như thế không bị chê là dê câm. Nếu ai quyết chí hoằng dương giới luật tiếp dẫn người sau, trước hết căn cứ vào bản Tập yếunày nghiên cứu cho rõ ràng nhuần nhuyễn, sau đó cần phải tham khảo toàn Tạng luật thì mang danh Luật sư mới không hổ thẹn vậy.

LUẬT TẠNG TỔNG MỤC

1)TỨ PHẦN LUẬT TẠNG: 60 quyển – Đời Diêu Taàn – Kế Tân – Tam Tạng Phật-đà-da-xá và Trúc Phật Niệm cùng dịch.

2) TỨ PHẦN GIỚI BỔN: 1 quyển – Tam tạng Phật-đà-da-xá dịch.

3) TỨ PHẦN GIỚI BỔN: 1 quyển.

TỲ-KHEO-NI GIỚI BỔN: 1 quyển – Đường, chùa Tây Thái Nguyên, Sa-môn Hoài Tố y luật tập xuất.

4) ĐÀM-VÔ-ĐỨC LUẬT TẠP YẾT-MA: 1 quyển – Tiền Ngụy, Tam Tạng Thiên Trúc Khương Tăng Khải dịch.

5) YẾT-MA – Tào Ngụy – Sa-môn Đàm-đế tập.

6) TỨ PHẦN TỲ-KHEO-NI YẾT-MA PHÁP: 1 quyển – Lưu Tống – Tam Tạng nước Kế Tân Cầu-na-bạt-ma dịch.

7) TỨ PHẦN LUẬT SAN BỔ TÙY CƠ YẾT-MA: 2 quyển – Kinh Triệu – chùa Sùng Nghĩa, Sa-môn Đạo Tuyên soạn.

8) TỨ PHẦN TĂNG YẾT-MA: 3 quyển.

TỨ PHẦN NI YẾT-MA: 3 quyển – Đường, chùa Tây Thái Nguyên, Sa-môn Hoài Tố y luật tập xuất.

9) MA-HA TĂNG KỲ LUẬT: 40 quyển – Đông Tấn – Tam Tạng Pháp sư Phật-đà-bạt-đà-la cùng Sa-môn Pháp Hiển dịch.

10) BA-LA-ĐỀ-MỘC-XOA TĂNG KỲ GIỚI BỔN: 1 quyển – Phật-đà-bạt-đà-la dịch.

11) TỲ-KHEO-NI TĂNG KỲ LUẬT BA-LA-ĐỀ-MỘC-XOA GIỚI KINH1: 1 quyển – Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, người Bình Dương cùng Giác Hiền dịch.

12) DI-SA-TẮC NGŨ PHẦN LUẬT: 30 quyển – Tống, Tam Tạng nước Kế Tân Phật-đà-thập và Trúc Đạo Sanh dịch.

13) NGŨ PHẦN GIỚI BỔN: 1 quyển.

TỲ-KHEO-NI GIỚI BỔN: 1 quyển – Lương, chùa Kiến Sơ – Sa-môn Minh Huy biên tập.

14) NGŨ PHẦN LUẬT YẾT-MA BỔN: 1 quyển – Đại Đường, chùa Khai Nghiệp, Sa-môn Ái Đồng ghi chép.

15) THẬP TỤNG LUẬT: 58 quyển – Diêu Tần, Tam Tạng Phất-nhã-đa-la, Cưu-ma-la-thập cùng dịch.

16) THẬP TỤNG TỲ-NI TỰ: 3 quyển – Đông Tấn, Tam Tạng Tỳ-ma-la-xoa dịch tiếp theo.

17) THẬP TỤNG LUẬT TỲ-KHEO GIỚI BỔN: 1 quyển – Cưu-ma-la-thập dịch.

18) THẬP TỤNG LUẬT TỲ-KHEO-NI GIỚI BỔN: 1 quyển – Tống, chùa Trường Can, Sa-môn Pháp Dĩnh tập xuất.

19) TÁT-BÀ-ĐA TỲ-NI TỲ-BÀ-SA: 6 quyển, thêm một quyển tiếp theo. Mất tên người dịch. Phụ vào thời Tam Tần sao chép.

20) TÁT-BÀ-ĐA TỲ-NI MA-ĐẮC-LẶC-GIÀ: 10 quyển – Tống, Tam Tạng Pháp sư Tăng-già-bạt-ma dịch.

21) ĐẠI SA-MÔN BÁCH NHẤT YẾT-MA PHÁP: 1 quyển –Mất tên người dịch. Phụ vào thời Tống sao chép.

22) THẬP TỤNG YẾT-MA TỲ-KHEO YẾU DỤNG: 1 quyển – Lưu Tống, Thích Tăng Cừ y luật soạn.

23) CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HƯÕU BỘ TỲ-NẠI-DA: 50 quyển.

24) (Như trên2) BÍ-SÔ-NI TỲ-NẠI-DA: 20 quyển.

25) (Như trên) TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ: 40 quyển.

26) (Như trên) TỲ-NẠI-DA PHÁ TĂNG SỰ: 20 quyển.

27) (Như trên) TỲ-ĐÀ-NA: 5 quyển. MỤC-ĐẮC-CA: 5 quyển.

28) (Như trên) BÁCH NHẤT YẾT-MA: 10 quyển.

29) (Như trên) GIỚI KINH: 1 quyển.
BÍ-SÔ-NI GIỚI KINH: 1 quyển.

30) NY-ĐÀ-NA-MỤC-ĐẮC-CA NHIẾP TỤNG3, TẠP SỰ NHIẾP TỤNG 4: 1 quyển – Đường, Tam Tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh phụng dịch.

31) CĂN BẢN TÁT-BÀ-ĐA BỘ LUẬT NHIẾP: 14 quyển – Tôn giả Thắng Hữu tạo. Nghĩa Tịnh dịch.

32) CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ-NẠI-DA TỤNG: 3 quyển – Tôn giả Tỳ-xá-khư tạo. Pháp sư Nghĩa Tịnh dịch.

33) (Như trên) XUẤT GIA THỌ CẬN VIÊN YẾT-MA NGHI QUỸ: 1 quyển.

34) BÍ-SÔ TẬP LƯỢC PHÁP: 1 quyển – Nguyên, Đế sư5Bí-sô Bạt-hiệp-tư-ba tập.

35) GIỚI NHAÂN DUYÊN KINH6: 10 quyển – Diêu Tần, Tam Tạng Trúc Phật Niệm dịch.

36) GIẢI THOÁT GIỚI BẢN KINH: 1 quyển – thuộc Ca-diếp-tỳ bộ – Nguyên Ngụy, Bà-la-môn Cù-đàm Bát-nhã-lưu-chi dịch.

37) THIỆN KIẾN TỲ-BÀ-SA LUẬT: 18 quyển Tiêu Tề – Sa-môn ngoại quốc Tăng-kỳ-bạt-đà-la7dịch.

38) TỲ-NI MẪU KINH: 8 quyển – Mất tên người. Phụ vào thời Tần sao chép.

39) PHẬT A-TỲ-ĐÀM KINH: 2 quyển – ĐờiTrần, Tam Tạng Pháp sư Chơn Đế dịch.

40) XÁ-LỢI-PHẤT VẤN KINH: 1 quyển – Đông Tấn, mất tên người dịch

41) ƯU-BA-LY VẤN KINH: 1 quyển – Lưu Tống, niên hiệu Nguyên Gia, Cầu-na-bạt-ma dịch.

42) CA-DIẾP CẤM GIỚI KINH: 1 quyển – Tống, Cư sĩ Thư CừKinh Thanh dịch.

43) PHẬT THUYẾT PHẠM GIỚI TỘI KHINH TRỌNG KINH: 1 quyển – Hậu Hán, Tam Tạng An Thế Cao người An Tức dịch.

44) PHẬT THUYẾT MỤC-LIÊN SỞ VẤN KINH: 1 quyển – Đồng như kinh trên, Tam tạng dịch kinh Triêu tán đại phu thí hồng lô thiếu khanh truyền giáo đại sư8Pháp Thiên người Tây Thiên phụng chiếu dịch.

Xét hai bản dịch 43 và 44 đều là một phẩm đầu của kinh Ngũ bách vấnđang lưu truyền.

Theo ý của kinh Ngũ bách vấn, người sau dựa vào đó thêm vào. Tôi (tác giả) đã từng xem kỹ, không những ngược với luật Tứ phầnmà còn mâu thuẫn hầu hết tất cả luật luận 5 bộ phái. Tuy nói rằng: Thánh ý không thể xét bừa bãi kinh điển, không nên bàn luận một cách khinh xuất. Nhưng hành trì theo thì rõ là ngược với các bộ luật đang hiện có. Chẳng lẽ bỏ tất cả những nguyên tắc cộng thông để giữ lấy pháp môn đang còn nghi ngờ. Không rõ các vị Luật chủ trong cận đại, đang lưu thông kinh này, đã từng tham khảo toàn Luật tạng chưa? Nay tôi đã nghiên cứu kỹ nguồn gốc của 5 hệ thống luật không thể không nêu ra những nghi ngờ này được.

45) LUẬT NHỊ THẬP NHỊ MINH LIỄU LUẬN: 1 quyển – Chánh lượng bộ  Pháp sư Phật-đà-đa-la-đa tạo. Trần, Tam Tạng Pháp sư Chơn Đế dịch.

46) ĐẠI TỲ-KHEO TAM THIÊN OAI NGHI: 2 quyển – Hậu Hán, An Thế Cao dịch. Ngài Tăng Hựu nói mất tên người dịch.

47) SA-DI THẬP GIỚI PHÁP VÀ OAI NGHI: 1 quyển – Mất tên người dịch. Phụ vào thời Đông Tấn sao chép.

48) SA-DI OAI NGHI: 1 quyển – Tống, Tam Tạng Thiên Trúc Cầu-na-bạt-ma dịch.

49) SA-DI-NI GIỚI KINH: 1 quyển – Mất tên người dịch, thời Hán sao chép.

50) SA-DI-NI LY GIỚI VĂN: 1 quyển – Mất tên dịch.

51) ƯU-BÀ-TẮC NGŨ GIỚI TƯỚNG KINH: 1 quyển – Tống, Tam Tạng Thiên Trúc Cầu-na-bạt-ma dịch.

52) GIỚI TIÊU TAI KINH: 1 quyển – Ngô, Ưu-bà-tắc Chi Khiêm người Nhục Chi dịch.

53) NAM HẢI KÝ QUI NỘI PHÁP TRUYỆN: 4 quyển.

– Thọ dụng tam thủy yếu hành pháp.

– Hộ mạng phóng sanh nghi quỹ pháp.

– Tuyết tội yếu hành pháp.

3 pháp trên hiệp một quyển.

Đường, Tam Tạng Sa-môn Nghĩa Tịnh dịch.


TỨ PHẦN LUẬT TẠNG PHẨM MỤC

1) Phần thứ nhất: 21 quyển.

Tỳ-kheo giới

2) Phần thứ hai: 15 quyển.

Tỳ-kheo-ni giới. Kiền-độ Thọ giới. Kiền-độ Thuyết giới.

3) Phần thứ ba: 13 quyển.

An cư – Tự tứ – Bì cách – Y dược – Y công đức – Câu-thiểm-di – Chiêm-ba – Quở trách – Nhân Che giấu – Ngăn phá tăng – Diệt tránh – Kiền-độ Tỳ-kheo-ni – Kiền-độ Pháp.

4) Phần thứ tư: 11 quyển.

Phòng xá – Tạp – Ngũ bách kiết tập – Thất bách kiết tập Tỳ-ni – Điều bộ Tỳ-ni – Tỳ-ni tăng nhất.

MỤC LỤC DẪN CÁC KINH LUẬN

Đại bát-niết-bàn kinh – Tạ Linh Vận trùng trị.

Đại Bát-nhã kinh – Huyền Trang pháp sư dịch.

Bồ-tát thiện giới kinh – Cầu-na-bạt-ma dịch.

Ưu-bà-tắc giới kinh – Đàm-vô-sấm dịch.

Pháp giới thứ đệ sơ môn – Trí giả đại sư soạn.

Quán Tâm Luận Sớ Chương An Tôn giả soạn

Tri Môn Cảnh Huấn Chưa rõ người tập thành



*Lời Phi lộ này tôi thuật lại, Phước Thắng ghi.

1Năm thiên (ngũthiên) gm có:

a) Ti Ba-la-di 波羅夷Ä (Skt=Pāli.pārājika), dch làđứtđầu. Ti này rt nng nhưngười bđứtđầu không thsanh trliđược. T-kheo cũng thế, phm vào là không thlàm T-kheo trliđược (T-kheo có 4 gii, T-kheo-ni có 8 gii).

b) Ti Tăng-già-bà-thi-sa 僧伽婆尸沙Å (Skt.Saṃghāvẳeṣa,li.Saṃghādisesa), Trung Hoa dch là Tăng tàn, phm vào ti này cũng nhưngười bchém c, chcòn li cung hng cn phi cp cu mi có thsng liđược. T-kheo cũng vy mun trli làm T-kheo thanh tnh, thì cn phi có scu cha ca Tăng bng cách hướng vTăng chúng sám hi ti này (T-kheo có 13 gii, T-kheo-ni có 17 gii).

c) Ba-dt-đề波逸提Ý (Skt. Pāyattika, Pāli. pācittika), Trung Hoa dch là đọa, là T-kheo nào phm vào ti này thì bđọa vào địa ngc. đây có 2 loi đơn đọa và xđọa (hai loi này cng li thì đối vi T-kheo có 120 gii, T-kheo-ni có 208 gii).

d) Đ-xá-ni, gi đủlà Ba-la-đềđề-xá-ni 波羅提提舍尼(Skt.Pratideśanỵya,Pāli.pātidesanỵya), dch là “hung vào người khác mà sám hi”, nghĩa là T-kheo nào phm vào ti này phi hướng vT-kheo khác mà sám hi, thì ti này mi tiêu dit (T-kheo 4 gii, T-kheo-ni 8 gii).

e) Đt-kiết-la突吉羅(Skt. duṣkṛta,Pāli.dukkaṭa), dch là “ác tác”, nghĩa là chcho nhng hànhđộng to tác ác. Ti này thuc loi nh.

1Kê Viên: Tây Trúc có chùa Kê-đầu-ma cách Lc Uyn (vườn nai) không xa. Cho nên kinh Đi Pht đảnh nói: “Ta Lc Uyn, cũng Kê Viên”. (xem NhưLai ti sơthành đạo).

2Phương qung: là tên chchung cho kinh đin Đi tha, vi 12 bkinh thì kinh Phương qung nếu theo thtlà th10 trong 12 b.

3By t(tht t): Căn cvào skhác bit ca năm thiên đã kết thành quti, cùng cái nghĩa cp yếu ca nó đểthiết lp By t. Trong nhng trường hp ti qusít soát vi Ba-la-di hay Tăng tàn, vì chúng chưa thành nên đây gi là Thâu-lan-giá và ti Đt-kiết-la ca hai nghip thân, khu được phân định trli là Đt-kiết-la, chcho thân gi là ác tác, còn khu gi là ác thuyết. Do đó by tgm có: Ba-la-di, Tăng tàn, Thâu-lan-giá, Ba-dt-đề, Đ-xá-ni, ác tác, ác thuyết.

1Đo cng gii: là 1 trong 3 loi lut nghi ca Thánh giTam tha. Khi hành ginhp vào sc gii thì sphát ra định Vô lu, cùng vi trí Vô lu, trong thân tphát rađược gii thphòng phi chác (lut nghi Vô lu),đó gi là lut nghi Vô lu hay cũng gi là Đo cng gii. Vì lut nghi Vô lu cùng vi Đo vô lu cùng phát sanh và cùng dit, cho nên gi là Đo cng gii.

2Mười gii: Theo đại Kinh thì có 10 loi: 1. Cm gii; 2. Thanh tnh gii; 3. Thin gii; 4. Bt khuyết gii; 5. Bt chiết gii; 6. Đi tha gii; 7. Bt thi gii; 8. Tùy thun gii; 9. Tt cánh gii; 10. Ctúc Ba-la-mt gii. 4 gii đầu thuc vslà cnh đểquán. Còn 6 loi sau thì dùng lý stương tc quán. Trong 6 gii này thì gii thnăm là gii không quán tương ưng, gii th6, th7 và 8 thuc vgii giquán tương ưng, gii th9 và th10 thuc vgii trung quán tương ưng.

3Tướng bch hào: là 1 trong 32 tướng ca đức NhưLai. Tướng ca nó là mt cái lông sc trng gia hai đường lông mày ca đức ThếTôn, xoáy tròn vphía hu nhưmt tri gia trưa, phóng ra ánh sáng. Lúc mi sanh ánh sáng dài cmt thước, lúc thành đạo dài cmt trượng năm thước, cho nên gi là tướng lông trng.

4Hành cước: là tchuyên môn dành cho các thin Tăng, trước khi chưa chng ngphi ly vic đi tham hc nơi các Thin sưlàm snghip cho mình, nên vn đềđi tham hc là snghip chính. Tđình suyn có nói rng: “Ngui hành cước là ngui xa lìa làng xóm đi hành cước trong thiên h, dt btình cm trói buc, tm phng thy bn đểcu pháp chng ng, bi vì hc vô thượng sưnên phi tri khp”.

5Tánh gii và giá gii: Tánh gii là gii ca chính ttánh, ví nhưttánh ca sát,đạo, dâm là gii khôngđợi Pht chếmi có gii nên gi là tánh gii.Giá gii là ngược li vi tánh gii, nghĩa là nhng gii này do tướng phm mà căn cvàođóđức Pht chếrađểrăn cm không cho phm.

6Văn-thù B-tát cm gươm bc Pht: (Truyn thuyết) theo kinh Đi bo tích quyn 105 nói: “Khi 500 vB-tát được trí Túc mng biết vnhiu kiếp trước đã to nhiu trng ti, vì vy nên lo tu hi hn khiến không thchng được Vô sanh pháp nhn. Lúc by gi, ngài Văn-thù biết được tâm nim ca h, trong đại chúng trch áo vai phi, tay cm kiếm bén hướng thng vđức ThếTôn mun hi ngài, đức Pht bo ngài Văn-thù chhi Ta, nhưng nếu mun hi thì nên hi mt cách khéo léo. Vì sao vy? Vì tt ccác pháp nhưmng huyn, không ngã không nhơn, bai sát hi mà thtai ương? Lúc y, các vB-tát biết rng các ti kiếp trước ca mình đều nhưhuyn hóa nên đạt được Vô sanh pháp nhn, khp ming đồng nói krng:

Văn Thù người đại trí,

Đt sâu ngun gcpháp.

Ttay cm kiếm báu,

Quyết bc thân NhưLai.

Nhưkiếm Pht không khác,

Mt tướng không có hai.

Không tướng không chsanh,

đây sao gi sát.”

7Tsương 砒霜: cũng gi là thch tín là mt loi thuc độc, ung vào chết ngui.

8Ưu Mnh là nhc công ca STrang Vương trướcđời Tn, gii khôi hài can gián. Ttướng Tôn Thúc Ngao rt coi trng phmđức ca ông, lúc lâm chung di chúc cho con sau này có gì khó khăn nên tìm đếnƯu Mnh. Sau này, qunhiên con Tôn Thúc Ngao nghèođến ni phiđiđốn ciđểsng qua ngày, bèn tìmƯu Mnh xin giúpđỡ.

Ưu Mnh mc qun áo ca Tôn Thúc Ngao, mô phngđộng tác và li nói ca Tôn Thúc Ngao… Luyn tp bt chước hơn mt năm, ông ci trang thành Tôn Thúc Ngao. Mt ln, Trang Vương mtic,Ưu Mnh bước lên dâng rượu, khiến Trang Vương tưởng Tôn Thúc Ngao tái sanh, mun mi vlàm Ttướng ln na…Ưu Mnh trli: “Vcon ca thn làm Ttướng nước slà không xngđáng, nhưTôn Thúc Ngao trung thành liêm khiết cai trquc gia, làm cho nước Sxưng bá trong thiên h, thếđến khi chết con cái nghèo không có cơmăn….” RiƯu Mnh hát khúc ca,đại ý…. Làm quan sch thì nghèo kh… Trang Vương nghe khúc ca tnh ng, cho gi con trai Tôn Thúc Ngao ban thưởngđấtđai và nô bc. (Bách khoa thưvăn hoá cđin Trung Quc – Nxb Văn hoá thông tin).

1Tánh ti và giá ti: Tánh ti là ti ác không cnđức Pht chếra mà phm vào là mc ti nhưcácđiu ác ca sát,đạo, dâm, nếu phm vào nhngđiu này là mc ti. Còn giá ti là tiđã phm vào nhngđiuđãđượcđức Pht ngăn cmđối vi nhng người xut gia, Pht mun gigìn miđiu cơhim ca thếgian có thxy ra, nênđức Pht chếra gii phápđểngăn nga không cho phm, nếu phm phi nhngđiu cmđó thì mc ti nhưcác loi cha dưy,ănđồcáchđêm,đàođất, hi cv.v…

1By chchín hi: theo Thp bát hoa nghiêm kinh mt bcó 39 phm thì có 7 chnói và gm có 9 hi.

7 ch: – Nhân gian gm có 3 ch: 1. Bđềđạo tràng, 2. PhQuang Minhđin, 3. Trùng Các gingđường,

– Thiên thượng gm có 4 ch: 1. Đao-li thiên, 2. D-ma thiên, 3. Đâu-sut thiên, 4. Tha Hóa thiên.

Đó là 7 chnói kinh Hoa nghiêm. Và gm có 9 hi:

1. Thế chủ diệu nghiêm phẩm, 2. Như Lai danh hiệu phẩm, 3. Thăng Đao-lợi thiên cung phẩm, 4. Thăng Dạ-ma thiên cung phẩm, 5. Thăng Đâu-suất thiên cung phẩm, 6. Thập địa phẩm, 7. Thập định phẩm, 8. Ly thế gian phẩm, 9. Nhập pháp giới phẩm. Đó là chín hội nói kinh Hoa nghiêm của đức Phật.

2Đnh cng gii: còn gi là Tnh lsanh lut nghi. Khi nhp vào sơthin, nhthin cùng các thin định khác, thì cùng vi thin định, gii thphòng phi chác tnhiên cùng sanh, tt cnhng động tác ca thân và khu đều kết hp vi lut nghi. Câu-xá lun 14 nói:“Tnh lsanh nghĩa là lut nghi tnơi tnh lsanh ra, hoc y vào tnh l. Nếu đạt được tnh lthì định thành ra lut nghi này.

1T-kheo-ni Tăng klut Ba-la-đề-mc-xoa gii kinh: là Ma-ha Tăng kT-kheo-ni gii bn, tr. 556, Đi22n1427.

2Căn bn thuyết nht thiết hu b.

3Căn bn thuyết nht thiết hu bT-ni-da ni-đà-na-mc-đắc-ca nhiếp tng.

4Căn bn thuyết nht thiết hu blược T-ni-da tp snhiếp tng.

5Đếsư: thy ca vua.

6Gii nhân duyên kinh: tên khác T-ni-da, T-ni-da kinh, Gii qunhân duyên kinh – tr. 851, Đi 24n1464.

7Tăng-k-bt-đà-la僧祇跋陀I羅: Bn nguyên tác in nhm ch(Trùng trt-ni snghĩa tp yếu quynđầu, tr. 347c22, Vn ‘Tc tng’ 40n719). Đính chính: Tăng-già-bt-đà-la僧伽 跋陀I羅 (skt. Saṃghabhadra – dịch là Tăng Hiền, Chúng Hiền),người Tây Vc. Ngàiđến Quảng Châu năm Vĩnh Minh (483-493) thi Nam T. Ngài dch bThin kiến lut t-bà-sa ti chùa Trúc Lâm, Qung Châu, năm th7 (có thuyết nói năm th6), niên hiu Vĩnh Minh (489).

8Triêu tán đại phu thí hng lô thiếu khanh truyn giáođại sư: là tước hiu do vua ban cho ngài Pháp Thiên.

— o0o —

(Chân thành cảm ơn Thầy Tâm Nhãn, chùa Long Sơn Khánh Hòa

đã gởi tặng bản điện tử tập sách này.

Thích Nguyên Tạng 6/2007)


— o0o —

Trình bày: Nhị Tường

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận