(Trích TÂM ẢNH LỤC, Trí Quang Thượng Nhân)
- Bài thứ 1. Đời người
- Bài thứ 2. ĐỜI SỐNG Ý NGHĨA
- Bài thứ 3. ĐỨC THẦY CHỈ ĐẠO
- Bài thứ 4. ĐƯỜNG ĐI VÀ NGƯỜI DẪN ĐƯỜNG
- Bài thứ 5. SỰ THỰC HÀNH TỐI THIỂU CỦA MỘT PHẬT TỬ
- Bài thứ 6. SỰ SINH HOẠT HẰNG NGÀY CỦA ĐỜI SỐNG Ý NGHĨA
- Bài thứ 7. MỘT BỔN PHẬN THIÊNG LIÊNG VÀ CẤP BÁCH
- Bài thứ 8. MỘT VIỄN ẢNH KHÔNG XA
Ngày xưa đức Phật có dạy thế này trong kinh Vô thường: “Nếu đời người vui đẹp, nếu đời người tươi sáng, thì ta và chánh pháp của ta đã không xuất hiện giữa thế gian này với loài người; nhưng ta và chánh pháp của ta đã xuất hiện là vì loài người khổ não và đen tối ấy”. Thế nên dẫu chúng ta không có quyền gieo cho nhau những ý tưởng bi quan vì đức Phật từng nghiêm cấm điều đó, cho rằng làm như thế là đồng lõa với sự tàn sát, nhưng sự thực vẫn là sự thực. Sự thực cuộc đời con người quả là đen tối, ảm đạm.
Xưa có một ông vua sai một nhóm thần tử thông minh soạn cho ông xem bộ nhân loại sử. Sau bao nhiêu năm tháng, họ chở đến một xe đầy những sách, yết kiến cái tuổi già gần qua cửa tử của chúa thượng. Ông vua thấy mà chán ngán. Sau mấy phen bảo dọn lại để xem kịp trước phút lìa đời, ông được nghe lời này, trong lần chót, của người cầm đầu nhóm thần tử ấy: “Muôn tâu chúa thượng, lịch sử nhân loại nhiều, nhiều lắm, nhưng sưu tầm và biên chép lịch sử nhân loại, hạ thần thấy tất cả có thể viết bằng một chữ, chữ khổ, là đủ”. Trên giường bịnh, ông vua đang chơi vơi với cái chết ấy mới ý thức thâm thiết đến một sự thực mà đời ông đã có thể nhiều lúc nhìn thấy nhưng bị sự “lấy đau khổ thay đau khổ” đánh bát đi.
Lấy đau khổ thay thế đau khổ là thế nào? Như một kẻ bộ hành đã đặt gánh nặng lên vai rồi, thì vai này nặng lại đổi qua vai khác, khi đổi qua vai khác thì ở vai này kẻ bộ hành thấy khoái thích. Giữa cõi thế, đời con người đã có thần là có khổ, nhưng không tự giác mà có lúc còn cảm thấy khoái lạc là chỉ ở trong trường hợp “lấy đau khổ thay thế đau khổ” ấy. Chỉ có thế mà thôi. Đời người không có gì hơn là một màu khổ não nếu chúng ta không biết thay đổi nó theo chánh pháp của Phật dạy. Đây, chúng ta hãy can đảm nhìn nhận kẻ thù để còn mong chiến thắng nó. Thoạt đầu, khi ở trong thai mẹ thì cái khổ ấy không nói làm chi nữa, nhưng thế là chúng ta đã như kẻ bộ hành đặt gánh nặng lên vai rồi đó. Thế nên khoan nói khi đưa thân ra giữa trần thế phải dãi dầm bao nhiêu nắng mưa mà không mấy kẻ đủ tiền hứng gió hay đủ áo để ngự hàn, mà hãy ngó chính những kẻ sống trong nhung lụa đi nữa, là những kẻ do sự sống đó đã vung bao nhiêu sầu cho người, chuốc bao nhiêu tủi vào mình, trong khi họ không neo buộc lại được trong tay một chút gì hết trước sự cướp giật tàn bạo của vô thường. Vị chua cay, mùi đen bạc, tràn đầy bể khổ bến mê mà chính họ là kẻ chìm ngập nhiều nhất, sâu nhất. Trong khi đó, “cái thân phù thế nghĩ mà đau”: nó chỉ là “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”. Vậy mà cái thân bèo bọt ấy, sự sống kéo nó tới với chút ít khoái cảm tức thì giật nó lui với trăm ngàn khổ đau. Không những chỉ vậy, thêm vào còn có sự già nua, sự bịnh tật lại xô đẩy nó một cách phũ phàng đến sự chết chóc mà đời không thể tránh được. Thương ôi, đời người, đời người thực sự quả là quá đen tối mà kẻ nào chạy chối sự thực ấy thì chỉ vùi mình mãi trong sự đen tối mà thôi.
Khổ hơn nữa là đời người đã khổ mà con người lại còn cố tình gây khổ sở cho nhau. Con người lòng đầy tham lam, tàn bạo mà lại si mê, con người ấy chỉ tự gây khổ cho nhau để rồi chung nhau chịu lấy khổ ấy. Thế nên sự sống mới bị giết chết một cách phũ phàng, sự yên ổn, nếu có, cũng bị công nhiên xâm phạm tàn nhẫn. Thân là thân của ta, đầu là đầu của ta, thế mà đời người chúng ta mấy ai giữ nổi và trọn quyền. kẻ hoành hành là con người, kẻ chịu đựng cũng là con người, vậy mà chiến thắng thì con người bị đày ải, chiến bại thì con người nô lệ, trong khi đó nào ai trao quyền cho ai, nhưng ai cũng bị sát phạt. Cuộc đời, con người hầu như không còn chỗ nào đứng vững được nữa.
Thế nhưng vẫn chưa hết, vì ngay ở địa hạt tin tưởng, đời người cũng chẳng còn biết tin tưởng vào đâu ngoài chánh pháp. Này đây là chủ nghĩa duy thần, này đây là chủ nghĩa duy vật, này đây là khoa học, này đây là tôn giáo, giữa chợ đời thứ nào cũng phong gói với những nhãn hiệu đẹp đẽ, chói lòa, do những bộ óc và bàn tay tham sân si. Nhưng nó đẹp là vì do tham sân si, mà nó đầy là vì chứa tham sân si. Không chỉ mới mà chẳng có chi lạ. Tham sân si hiện hình ra ở đời người, nhưng ở mọi lý thuyết, mọi chủ nghĩa mới thật là hình bóng trung thực của nó. Nên ở địa hạt này đời người mới thật hết chỗ để tin tưởng. Ngây thơ nghe theo tiếng gọi của tham sân si lòng mình mà đi theo lý thuyết của tham sân si lòng người, thì kết quả chỉ tăng thêm tham sân si, chỉ chịu đựng khổ não của tham sân si ấy mà thôi.
Trong không gian, nhìn qua đông tây cũng như nhìn về nam bắc, trong thời gian, nhìn vào trước sau cũng không khác nhìn ở hiện tại, “đời người chỉ là sự bại hoại, hư rã”. Nhưng phước cho con người là thế gian này có bóng tối thì cũng có ánh sáng, đêm tối bao nhiêu thì ngày sáng bấy nhiêu, nên trong cõi đời ám còn có mặt trời chánh pháp. Chánh pháp sẽ soi sáng đời người mà công việc trước hết là làm cho con người thấy rõ sự đen tối của cuộc đời để nhận ra phương hướng phải đi. Bởi vậy, con người đã có năng lực gây ra đau khổ toàn diện đời mình thì toàn diện đời mình cũng sẽ thay đổi được do chính năng lực ấy. Nên đời chúng ta, chúng ta đã biết là khổ và khổ vì nguyên nhân nào, thì bước thứ hai trong phương hướng mình phải đi là mạnh mẽ quay về chánh pháp, chuyển đời sống vô giá trị thành đời sống có giá trị, đời sống có nghĩa mà ta sẽ thấy có giá trị, đời sống có nghĩa mà ta sẽ thấy sau đây. Đấy là đời sống tràn đầy ánh sáng; chúng ta hãy nổ lực chống chõi cuộc đời khổ não để vươn mình ra ánh sáng ấy.
Bài thứ 2. ĐỜI SỐNG Ý NGHĨA
Ngày xưa vua A dục, một ông vua sống đúng chánh pháp và vì chánh pháp, mỗi khi ra đường gặp các vị Tăng già thì bất cứ trường hợp nào, ông cũng cúi đầu làm lễ sát đất. Cử động đó làm cho một số thần tử ông bất bình. Nhưng ông bảo: “Đầu tôi hay đầu các ông nếu cắt đem bán với các thứ đầu khác ngoài chợ, thì người mua sẽ lựa đầu ấy hay đầu súc vật?” Họ trả lời rằng người mua chỉ chọn đầu súc vật mà thôi. Ông bảo: “Vậy thì cái đầu của con người có giá trị hơn đầu súc vật đâu; muốn nó có giá trị thì ta phải dùng nó mà suy nghĩ lẽ phải và làm lễ người có đức tốt. Nếu để nó phục tùng tánh kiêu ngạo, chứa đựng những ý nghĩ đen tối, thì thế là ta đã biến một vật có giá trị thành vật vô giá trị. Mà người có trí là người phải biến vật vô giá trị thành vật có giá trị”.
Đầu con người như thế thì đời con người cũng y như vậy. Nó quả là vô giá trị nếu loài người chúng ta để nó xuôi theo tội ác, nhưng nếu quay nó về chánh pháp thì thế là chúng ta chuyển đời sống vô giá trị thành đời sống đầy ý nghĩa. Đức Phật có dạy: “Đời người là một nhưng cách sống có 2 khuynh hướng: có người từ đen tối bước ra ánh sáng”. Lời ấy chứng minh cách sống trên đây. Cho nên đời người quả thật không phải có giá trị hay vô giá trị, nhưng đời người là đời sống, nghĩa là có khả năng. Mà khả năng ấy phi có giá trị thì vô giá trị, phi đen tối thì tươi sáng, nghĩa là phi về thoái hoá thì hướng về tiến bộ. Sự tu hành chỉ ở 1 chữ “chuyển biến” mà thôi; quay đời sống mình lại, hướng về chánh pháp, sống theo chánh pháp, đời sống như vậy là đời sống ý nghĩa.
Đời sống ý nghĩa ấy, ít nhất phải có tín ngưỡng minh chánh, hành động hiệu lực, trong mục đích hợp lý.
Trước hết, chúng ta hãy tìm một “mục đích hợp lý”. Thực tế và lý luận khắp nơi, chứng minh cho ta thấy đời sống của chúng ta cũng là cả một xã hội: nó thu góp lại và nó phải phân phát ra. Đời sống của ta đã thừa hưởng của mọi người thì cũng phải chung sức với mọi người. Bởi vậy, trong không gian, giá trị đời sống là vô cùng; với giá trị đó, đời sống phải có mục đích xa và rộng. Ít nhất, cũng phải rộng hơn bản ngã và xa hơn tự lợi. Phải tôn trọng và chung sức vào chân hạnh phúc chung, một chân hạnh phúc vĩnh cữu xây trên những điều kiện vĩnh cữu. Đó là mục đích phải có, cần có, đáng có và nên có của đời sống ý nghĩa.
Đặt cho mình mục đích phải lẽ như vậy rồi, muốn đời sống thực sự có ý nghĩa thì lại phải ngược dòng tự lợi, ngược tánh vị ngã, cương nghị bằng những “hành động hiệu lực”. Hành động hiệu lực của đời sống ý nghĩa không phải là sự chiếm đoạt của tham lam, sự chống đối của sân hận, sự manh động của cuồng si, mà phải biến thành những từ ngữ thi ân, dũng liệt. Hành động hiệu lực ấy phải hoạt dung rộng rãi ra bằng những hành vi tự tha lưỡng lợi. Bởi vậy, chiến thắng lấy mình, tự giác lấy mình và giúp người khác trong những hành động hợp lý đó, mới là hành động có hiệu lực trong đời sống ý nghĩa.
Tóm tắt, khi chúng ta xác nậhn rằng đời sống ý nghĩa là đời sống phải có mục đích vì chân hạnh phúc chung và xác nhận rằng vì chân hạnh phúc chung đềiu kiện trước hết là phải tự chiến thắng, tự cải tạo lấy mình: như thế đó là cả một đời sống đã quay về ánh sáng chánh pháp. Nhưng muốn đời sống được như vậy, chúng ta phải có một “tín ngưỡng minh chánh”, một đức tin do sự xác nhận sáng suốt, rõ ràng, đúng lý, rằng Chánh pháp là sự thực và là phương pháp để diệt khổ, rằng Phật đà là người đã thật hiện chánh pháp, rằng Tăng già là những kẻ đang tự mình và hướng dẫn kẻ khác thật hành chánh pháp. Chỉ tín ngưỡng chánh pháp, chỉ tín ngưỡng những người đã và đang thật hệin chánh pháp, đó là tín ngưỡng minh chánh phải có để làm nền tảng cho một đời sống ý nghĩa.
Hơn ai tất cả, những người muốn đời sống của mình có ý nghĩa thì điều kiện căn bản là “phải tự tín năng lực hướng thiện của mình”. Vũ trụ được thành và được giữ cũng trong năng lực của con người. Con người khổ là do năng lực của con người, con người sướng cũng do năng lực của con người. Chính năng lực của con người tự quyết định số mạng của mình. Năng lực của con người đã đủ sức gây ta tàn ác, kéo con người lăn xuống một cách thảm khốc vào hầm hố địa ngục, thì cũng chính năng lực ấy sẽ đủ sức hướng về điều thiện, đưa con người bước lên một cách hiệu quả vào cảnh giới an lạc. Mà khi chúng ta tự biết, tự nhận, tự tin năng lực hướng thiện của mình như vậy là một đời sống ý nghĩa – đời sống có tín ngưỡng minh chánh, có hành động hiệu lực, có mục đích hợp lý, đời sốngnhư vậy không những chúng ta đã có mà có thể sống theo được.
Bấy giờ nếu chúng ta đem đời sống ý nghĩa ấy ngó lại đời sống hiện tại của chúng ta xem ra sao. Thì rõ rệt là một đời sống thiếu mục đích, thiếu tin tưởng, thiếu cả những hành động hiệu lực đối với chân hạnh phúc chung: đời sống như thế quả thực là đời sống vô giá trị. Đời sống như thế sẽ đi đến đâu, chúng ta không khó khăn lắm cũng có thể tưởng thấy được. Đối lại, đời sống ý nghĩa với tín ngưỡng minh chánh, hành động hiệu lực trong mục đích hợp lý, đời sống ấy quyết chắc sẽ đem lại cho ta một viễn ảnh hoàn toàn tốt đẹp, một viễn ảnh mà chúng ta cũng quyết chắc không xa lắm nếu chúng ta quyết sống theo đời sống ấy.
Mà tín ngưỡng minh chánh là quy y Tam bảo, hành động hiệu lực là hành trì ngũ giới mục đích hợp lý là thực hiện tịnh độ giữa nhân gian. Bởi vậy, đối với đời sống ý nghĩa của con người, đạo Phật đã có thể tạo ra mà lại có thể tạo thành. Và sống một đời sống ý nghĩa như vậy là đã thành một Phật tử, một người đi theo dấu chân của đức Phật, đức thầy chỉ đạo của tất cả những người muốn hướng thiện mà chúng ta sẽ thấy.
Bài thứ 3. ĐỨC THẦY CHỈ ĐẠO
Đức thầy chỉ đạo ấy là đức Phật Thích-Ca. Thật vậy, đức Phật Thích Ca Mâu Ni quả là đức thầy chỉ đạo của đời sống ý nghĩa, của những người muốn sống đời sống ý nghĩa ấy, vì hơn ai tất cả. Ngài đã tự chỉ đạo cho mình sống và đã sống hoàn toàn đời sống ý nghĩa đó.
Đức Phật Thích Ca, thiếu thời là một hoàng tử tài đức. Uy quyền nhiều, hạnh phúc đủ, nhưng vị hoàng tử ấy rũ sạch, ra đi xuất gia vì chí nguyện sống cho người, vì người. Chí nguyện ấy là hạt giống đã gieo tự nhiều kiếp của đời sống ý nghĩa. Ngày nay, những người ham thích và quyết chí sống đời sống ý nghĩa ấy vẫn còn luôn luôn tưởng thấy một thanh niên tuổi 29 mang trong mình bao nhiêu cao sang của ngai vàng, bao nhiêu lẫm liệt của quyền hành và bao nhiêu tha thiết của tình yêu, bao nhiêu sung túc của cuộc sống, vậy mà thanh niên ấy đã bỏ lại tất cả cho hoàng thành Ca tỳ la vệ trong một đêm tối, và từ đêm tối ấy, với vó ngựa mạnh mẽ, thanh niên vượt qua thành trì rực rỡ mà trụy lạc, phi vào rừng núi gai góc nhưng cao cả. Hình ảnh này đã hoạt diễn và còn hoạt diễn mãi trong tâm trí của những người tha thiết sống đời sống ý nghĩa.
Rồi mặc như gắn vào mình chiếc ca sa muôn đời của tam thế chư Phật, thanh niên ấy đi tìm thầy học hỏi những cái mà chí hướng vì người của mình đòi hỏi. Hết học lại tu. Hết tu với người lại tự tu tập một mình. Trong sự tu tập, vừa suy nghiệm lại vừa thực nghiệm. Cho đến khi tuệ giác tối thượng đến với thanh niên dưới gốc cây bồ đề thì bấy giờ hết thảy nguyện vọng của đời sống ý nghĩa đã thật hiện đầy đủ. Thanh niên ấy, hoànt tử của chí nguyện cao cả ấy đã thành một đức Phật, đức thấy chỉ đạo của tất cả.
Đức Phật, sau khi đại giác ngộ về đời sống ý nghĩa rồi, tận tụy đem những điều mình đã giác ngộ, đã thật hệin về đời sống ấy, suốt đời chỉ đạo lại cho người. Đời sống ý nghĩa mà Ngài chỉ đạo có vô số hiệu quả thực tế. Đời sống ấy đã và sẽ làm cho hàng triệu người lúc ấy, bây giờ và mãi mãi về sau này chuyển đời sống đen tối, vô giá trị của họ thành đời sống ý nghĩa. Đặc biệt là đời sống ấy không những làm cho loài người sống có ý nghĩa mà còn lan tràn ánh sáng đến cả đời sống của loài vật. Trong kinh điển còn chép rõ những thực trạng đó khi Phật còn tại thế.
Điều cần thiết của đời sống ý nghĩa là tự tin và tự gắng năng lực hướng thệin của chính mình. Cho nên một đời tận tụy chỉ đạo đời sống ý nghĩa cho người bằng mọi cách – vừa chỉ đạo bằng sự giáo huấn, vừa chỉ đạo bằng cách đích thân làm gương, cho đến khi sức khỏe tàn tạ với tuổi tám mươi, đức Phật tóm thân tất cả đường lối chỉ đạo của mình trong lời di giáo cuối cùng này: “Hãy lấy mình làm căn cứ và làm đuốc sáng, hãy lấy chánh pháp làm căn cứ và làm đuốc sáng”. Tất cả giá trị của đời sống ý nghĩa là lấy chánh pháp làm căn cứ và làm ánh sáng, tất cả điều kiện cần thiết của đời sống ý nghĩa là lấy mình làm căn cứ và làm ánh sáng trong sự hướng về chánh pháp, cuối cùng, tính cách chỉ đạo, tính cách xứng đáng của sự chỉ đạo mà ta tìm thấy duy nhất ở đức Phật là vạch rõ những điều ấy.
Là đức Thầy chỉ đạo mọi người, nhưng đức Phật không nói các người phải theo ta, cũng không khuyên ta nên theo Ngài. Ngài chỉ vạch đường, đưa đường và “dĩ thân tác chứng”, đích thân làm gương và làm chứng trong sự chỉ đạo mọi người sống đời sống ý nghĩa. Đời sống ấy phải làm thế nào và có ý nghĩa gì, Ngài đã làm và làm đã kết quả. Một đời sống hoàn toàn ý nghĩa, người ta chỉ nhìn vào đời đức Phật là thấy. Và người ta chì tìm thấy cũng như đã tìm thấy đời sống ấy ở đức Phật mà thôi.
Chỉ đạo cho mục đích hợp lý, hành động hiệu lực, tín ngưỡng minh chánh của một đời sống ý nghĩa, đức Phật đã làm với tất cả sự đề cao bản tánh của con người, sự nâng đỡ lý đoán của con người và sự phát triển năng lực của con người, bằng tất cả đức đại hùng, đại lực, đại từ bi của Ngài. Với lý thuyết “vô ngã” Ngài xả bỏ đời mình cho tất cả và chỉ đạo mọi người chuyển bỏ đời sống đen tối bước qua đời sống đầy ý vị. Với lý thuyết đời sống vô vị là cả một “khổ hải”, Ngài đã rời bỏ ngai vàng, bước đến với hết thảy những người muốn sống đời sống ý nghĩa. Với lý thuyết “vô thường” và “vô tánh”, Ngài đích thân làm cho mọi người thấy cuộc đời cần thay đổi và quan trọng nhất là có thể thay đổi được thành đời sống đầy ý nghĩa. Mực thường nhất của đời sống đầy ý nghĩa, như bổn phận đối với xã hội, nghĩa vụ đối với gia đình, từ đời sống riêng tư của cá nhân đến sự đối xử cần có đối với mọi người, đức Phật đã đích thân làm gương và chỉ đạo đầy đủ.
Chỉ đời sống ý nghĩa đức Phật vạch ra mới hợp lý, chỉ đức Phật vạch đời sống ý nghĩa mới hợp lý, và chỉ hợp lý là khi chính ta quyết chí sống theo đời sống ý nghĩa mà đức Phật đã vạch; những sự hợp lý như thế này quả thật chúng ta có thể tìm thấy khi chúng ta chiêm ngưỡng vào đức Phật, đức Thầy chỉ đạo của chúng ta.
Bài thứ 4. ĐƯỜNG ĐI VÀ NGƯỜI DẪN ĐƯỜNG
Đường đi là pháp của Phật chỉ dạy, còn người dẫn đường là Tăng, là các vị thay thế một cách xứng đáng đối với đức Phật trong sự dẫn đạo mọi người đi theo con đường mà Ngài đã chỉ.
Pháp của đức Phật dạy có 3 định lý: nhìn vạn hữu qua thì gian thì thấy tính chất của chúng là “vô thường”, nhìn vạn hữu qua không gian thì thấy tính chất của chúng là “vô ngã”, lại xác định rằng vì 2 tính chất đó nên có thể thực hiện “niết bàn”. Nên thuật ngữ gọi 3 định lý ấy là chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, tịch tịnh niết bàn.
a) Chư hành vô thường. – Hành là sự chuyển biến của hành vi và vạn hữu qua thì gian. Từ sự chuyển biến thầm kín đến sự chuyển biến rõ rệt, hành vi và vạn hữu phát sanh trong sự chuyển biến đó, tồn tại trong sự chuyển biến đó, và biến hóa cũng trong sự chuyển biến đó. Trong tính chất thì gian, hành vi và vạn hữu khnông hề có tính chất vĩnh cửu và cố định. Có và có được là do sự chuểyn biến, mà cũng do sự chuyển biến, cái có ấy có thể thay đổi theo ý muốn của chúng ta. Bởi vậy, định lý trước hết của hành vi và vạn hữu là “vô thường”.
b) Chư pháp vô ngã. – Pháp là sự tổ hợp của hành vi và vạn hữu qua không gian. Từ những đan vị vi tế cho đến những kết cấu vĩ đại, hành vi và vạn sự do sự tổ hợp mà phát hiện, do sự tổ hợp mà tồn tại, do sự tổ hợp mà biến hóa. Trong tính chất không gian, hành vi và vạn hữu không hề có tính cách đơn độc và biệt lập. Có và có được là do sự tương quan, mà cũng do sự tương quan, cái có ấy có thể thay đổi theo ý muốn của chúng ta. Bởi vậy, định lý thứ hai của hành vi và vạn hữu là “vô ngã”.
c) Tịch tịnh niết bàn. – Tịch tịnh là sự đình chỉ của đau khổ, sự đình chỉ của nguyên nhân đau khổ. Vạn hữu thành tựu trong sự tác động của hành vi. Hành vi ác, kết quả khổ não. Hành vi thiện, kết quả an lạc. Mà hành vi ác hay thiện là do tâm lý, nguyên động lực của hành vi, còn có hay không còn có các mối tham sân si. Vậy tham sân si đích thực là nguyên nhân của đau khổ. Nhưng cả đau khổ cũng như nguyên nhân của đau khổ đều vô thường vô ngã. Đã vô thường vô ngã thì cần phải đình chỉ và có thể đình chỉ được. Khi đình chỉ được nguyên nhân đau khổ thì đau khổ diệt hết: đau khổ diệt hết thì chính đó là Niết bàn. Cũng như kẻ bộ hành đã bỏ gánh xuống và chỉ bỏ gánh xuống, sự nặng mới không còn trên vai nữa. Bởi vậy “Niết bàn” là đích lý thứ ba, định lý tiến hóa của hành vi và vạn hữu.
Ba định lý vô thường, vô ngã, Niết bàn như vậy, như chúng ta đã thấy, chúng ta có thể áp dụng vào tất cả mọi mặt lý thuyết, thực hành và diệu dụng của đời sống ý nghĩa. Mà ba định lý ấy chỉ mới là nền móng của chánh pháp đức Phật truyền dạy. Nên chánh pháp quả là đường đi cao chót vót, rộng thênh thang, sáng rực rỡ, lợi thiết tực cho đời sống ý nghĩa. Chánh pháp ấy, vì vậy, được mệnh danh là “chánh”. Con đường của chánh pháp vạch ra là con đường chánh. Đi theo “con đường chánh” ấy, nghĩa là áp dụng chánh pháp vào đời sống của mình, thì chúng ta phải chánh đời sống ấy lại về tất cả mọi mặt của nó: từ nhận thức đến tư duy, từ ngôn ngữ đến hành động, từ sanh hoạt đến nỗ lực, từ lý ức đến chuyên tâm, đều nhất luật phải cố mà chánh lại tất cả y như chánh pháp đã hoạch định, nên thuật ngữ đã gọi là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh cần, chánh niệm, chánh định. Pháp của đức Phật như vậy thực là cã một con đường chánh, con đường phải đi của những người muốn sống đời sống ý nghĩa và giá trị.
Chánh pháp như vậy là con đường mà đức Phật đã đi qua để tạo cho mình một đời sống hoàn toàn ý nghĩa và đã đem ra để chỉ đạo lại mọi người. Ngày nay đức Phật không còn nữa thì người thay thế sự chỉ đạo của đức Phật là dĩ thân tác chứng, đích thân làm gương và làm chứng những lời mình chỉ đạo. Vì vậy, sự thay thế đức Phật để chỉ đạo mọi người của liệt vị Tăng già cũng phải là những người vừa tự mình thực hành chánh pháp vừa hướng dẫn mọi người sống theo chánh pháp ấy.
Cảm nhận một cách sâu xa những định lý vô thường, vô ngã và niết bàn, các vị Tăng già xuất gia. Xuất gia là một sự xả bỏ hoàn toàn để phục vụ tất cả. Xuất gia là một sự hủy hoại triệt để mà cũng là một sự xây dựng đến kỳ cùng. Càng nhìn rõ sự thực giả dối đau khổ của cuộc đời chừng nào, các vị Tăng già càng thấy rõ cuộc đời có thể thay đổi để thực hiện niết bàn ngần ấy. Bởi vậy, với sự nhận định và với những năng lực trên, liệt vị Tăng già vừa tự hướng dẫn đời mình mà là hướng dẫn người khác, tinh tiến đi trên “con đường chánh” của đức Phật đã chỉ thị. Cũng bởi vậy, những nhận định hợp lý, những năng lực dũng liệt, đều biểu hiện cụ thể ở liệt vị tăng già. Nào những tín ngưỡng minh chánh, những hành động hiệu lực, những mục đích hợp lý chúng ta có thể tìm thấy đầy đủ ở năng lực hướng thiện của liệt vị Tăng già. Mọi tư cách chỉ đạo của đức Phật, người ta cũng tìm thấy và chỉ tìm thấy ở liệt vị xuất trần thượng sĩ ấy mà thôi. Liệt vị Tăng già đúng là hình bóng của đức Phật. Cho nên ngày nay tuy cách Phật đã quá xa, nhưng trên đường đi theo chánh pháp, những người muốn sống đời sống ý nghĩa vẫn còn có người hướng đạo: người hướng đạo ấy là liệt vị Tăng già vậy.
Bài thứ 5. SỰ THỰC HÀNH TỐI THIỂU CỦA MỘT PHẬT TỬ
Khi đã nhận rõ bao nhiêu hắc ám của cuộc đời, khi đã chuyển đời sống vô giá trị thành đời sống có giá trị bằng cách ham thích và quyết chí sống theo đời sống ý nghĩa, khi đã biết đức Phật là đức Thầy chỉ đạo cho mình trong đời sống ý nghĩa ấy, khi đã xác nhận chánh pháp là con đường chánh phải đi và người xuất gia là kẻ dẫn đường đầy từ bi và trí tuệ, thì khi ấy ta đã thành một Phật tử. Với những sự thực hành tối thiểu sau đây sẽ giúp ta hoàn thành tư cách một Phật tử như thế, nghĩa là giúp ta thực hiện một đời sống ý nghĩa thực sự.
Sự thực hành tối thiểu ấy là quy y và giữ giới.
a) Quy y. – Nghĩa đen của chữ quy y là quay đời mình lại, sống theo chánh pháp. Nhưng chánh pháp ấy, như ta đã biết, người giác ngộ và Phật là người thật hành là Tăng, nên quy y chánh pháp tức là quy y Tam bảo: quy y Phật, người đã giác ngộ và thuyết minh Pháp, quy y Pháp, chân lý và phương pháp diệt khổ, quy y Tăng, người đang tự mình và dẫn đạo người khác thật hành Pháp. Giá trị vô thượng của Tam bảo chính là những tính chất vừa kể đó, nên gọi là bảo. Tam bảo như vậy chứng minh đạo Phật không phải chỉ có lý thuếyt (Pháp) mà lý thuyết ấy đã có người thực hiện (Phật) và có người đang thực hành (Tăng). Nên Tam bảo là chỗ nương tựa của Phật tử, là căn cứ địa của những người muốn sống đời sống ý nghĩa, vì đời sống ý nghĩa là gì nếu không phải hoàn toàn sống theo Chánh pháp?
b) Giữ giới. – Giới là những lỷ luật mà do đó tạo ra một nhân cách mới, một con người mới, một đời sống mới, đời sống ý nghĩa. Trong bước đầu, giới mà người Phật tử phải giữ là ngũ giới, tức 5 thứ kỷ luật là không được sát hại, trộm cướp, tà dâm, dối trá và rượu chè. Nói rộng ra theo ảnh hưởng thực tế của chúng, thì không sát hại là đình chỉ mọi sự tàn bạo, không trộm cướp là cấm chỉ mọi hình thức bóc lột, không tà dâm là trừ khử mọi cách làm hủ hóa con người, không dối trá là hủy bỏ mọi thủ đoạn gian hùng, không rượi chè là cấm đoán mọi sự làm mất thăng bằng cơ thể và tâm trí. Năm giới như vậy quả thật là những luật pháp phải có giữa người với người khi còn người ít nhất cũng đã biết tôn trọng tánh mạng và hạnh phúc của nhau, huống chi khi con người muốn quay đời mình về chánh pháp, sống đời sống đầy ý nghĩa.
Hai sự thực hành tối thiểu trên đây, người muốn có một tư cách xứng đáng đã phải có, cần có, chứ không những là một Phật tử. Một Phật tử thì tuyệt đối không thể thiếu được. Không có lý gì một Phật tử mà không “quy y” nghĩa là không muốn quay đời mình về sống theo chánh pháp và không “giữ giới” nghĩa là không nỗ lực khắc phục bản ngã mà lại phóng túng như con ngựa không yên cương trong những hành vi tàn bạo, chiếm đoạt, gian dâm, dối trá và cuồng say. Con người mà đến thế ấy thì nói như đức Phật đã dạy, con người ấy không còn gì là tâm quí; mà đã không còn tâm qíu để mà tự thẹn, tự giác, tự tiến bộ thì con người ấy không khác gì cầm thú cả. Con người như thế là nguyên động lực của mọi điên đảo, mọi ly loạn, mọi cuộc chinh chiến. Gia đình cũng như xã hội của con người ấy chỉ có thể có một màu sắc, màu sắc thoái hóa đầu diệt vong.
Người Phật tử, vì vậy, khi quy y Tam bảo thì thệ nguyện như thế này “suốt đời quy y Phật mà không theo ngoại đạo tà giáo, quy y Pháp mà không theo ngoại đạo tà giáo, quy y Tăng mà không theo tổn hữu ác đảng”. Khi giữ gìn ngũ giới thì cũng thệ nguyện tương tự như thế, rằng “thà bỏ tánh mạng chứ suốt đời không sát hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu”. Lời thề mà như thế tức là tuyệt đối nguyện sống theo đời sống có ý nghĩa. Cho nên người Phật tử không hề nghĩ rằng hạnh phúc biểu hiện qua sự sống yên ổn và vô phúc chính là sự bất an. Họ chỉ nghĩ và phải nghĩ rằng sống thì phải sống ý nghĩa mà chết thì cũng phải chết ý nghĩa. Nói cách khác, giá trị của sự sống chết là ở chỗ vì những tín ngưỡng minh chánh (quy y Tam bảo) và vì những hành động hợp lý (thọ trì ngũ giới) mà họ nguyện sống theo. Cái sống và cái chết như vậy, sự yên ổn hay sự hy sinh đều vô nghĩa, mà giá trị tối thượng và kết quả cuối cùng của chúng chính ở chỗ chúng đã tạo thành một đời sống ý nghĩa đúng như lời Phật chỉ thị.
Huống chi quy y và trì giới chính là quy y Tam bào của tâm tánh mình và tự giữ 5 giới tức những đức tánh của tâm tánh ấy. Chánh pháp đã cắt nghĩa rằng chúng ta cuối cùng, ai cũng vẫn có khả năng giác ngộ: khả năng giác ngộ ấy là Phật, mọi đức tánh của khả năng ấy gọi là Pháp, năng lực tự phát triển mọi đức tánh của khả năng ấy gọi là Tăng. Phật Pháp Tăng chỉ là biểu hiện của tự tánh Tam bảo như thế đó. Mà người quy y là nhờ Phật Pháp Tăng để vạch lộ Tam bảo của tự tánh mình. Còn 5 giới là đức tánh tôn trọng tánh mạng, đức tánh tôn trọng tài sản, đức tánh thanh tịnh, đức tánh thành thực và đức tánh sáng suốt của tâm tánh, chứ không chi khác. Cho nên sự quy y và sự giữ giới là tự thề sống theo, tự thề phát triển những gì quí giá của chính tâm tánh mình. Mà đời sống ý nghĩa, quay lại mà nói, chính là đời sống biết sống theo những giá trị của tâm tánh chứ không chi khác hơn nữa.
Tóm tắt, quy y và giữ giới, 2 sự đó, nhìn tất cả mọi mặt, thật là hai sự thực hành tuy tối thiểu nhưng là căn bản phải có và cần có của một Phật tử, những người muốn sống, ham sống, quyết sống đời sống ý nghĩa như Chánh pháp đã vạch.
Bài thứ 6. SỰ SINH HOẠT HẰNG NGÀY CỦA ĐỜI SỐNG Ý NGHĨA
Quy y là những tín ngưỡng minh chánh, giữ giới là những hành động hiệu lực đối với đời sống ý nghĩa của Phật tử, nhưng đó chỉ là 2 sự thực hành căn bản. Từ căn bản này, người Phật tử muốn thực hiện có hiệu quả đời sống ý nghĩa của mình thì phải làm gì nữa trong hằng ngày và ngay trong tâm niệm? Kinh nghiệm cho ta thấy điều này mới thật quan trọng. Thường chúng ta hay với lên những điều cao xa, đồ sộ, chúng ta say mê xây nền đắp móng nhưng trong khi đó chúng ta quên đi những viên gạch và những lát vôi mà chính nhờ chúng, lâu đài đồ sộ của đời sống ý nghĩa mới cất lên được từ nền móng đến tầng cao chót vót. Thực vậy, đời sống ý nghĩa đồ sộ chính thực được tạo ra do những sự sinh hoạt chân xác trong hằng ngày và trong tâm niệm. Cho nên sau đây là 2 điều mà mọi người không thể thiếu trong sự sinh hoạt nhật dụng của mình; phảo tụng niệm và phải có ý thức.
a) Phải tụng niệm. – Như danh từ của nó, sự tụng niệm là đọc và nhớ lại những điều mình cần phải làm, những đức tính mình cần phải thực hiện. Sự tụng niệm ấy chẳng có gì khó cả trong nghi thức sau đây:
Đại từ đại bi thương chúng sanh.
Đại hùng đại lực cứu muôn loài,
Nam mô A Di Đà Phật (30 lần)
Cứ mỗi buổi tối, trước khi nằm ngủ, ngồi đọc lên tiếng hay đọc thầm như thế. Trường hợp khác cũng có thể tụng niệm như thế được, khác chăng là tuỳ lúc mà đọc ra tiếng hay đọc thầm mà thôi. Riêng tiếng niệm danh hiệu của Phật, ngoài 30 lần mà thêm nữa thì càng nhiều càng hay. Ai muốn và có thể học thuộc lòng thì tụng thêm bài sám hối sau đây:
Đệ tử kính lạy,
Đức Phật Thích Ca,
Phật A Di đà,
Thập phương chư Phật;
Vô thượng Phật pháp,
Cùng Thánh hiền tăng.
Đệ tử lâu đời lâu kiếp,
Nghiệp chướng nặng nề,
Tham giận kiêu căng,
Si mê lầm lạc,
Ngày nay nhờ Phật,
Biết sự lỗi lầm,
Thành tâm sám hối:
Thề tránh điều dữ,
Nguyện làm việc lành,
Ngữa trông ơn Phật,
Từ bi gia hộ,
Thân không tật bệnh,
Tâm không phiền não,
Hằng ngày an vui tu tập,
Pháp Phật nhiệm mầu,
Để mau ra khỏi luân hồi,
Minh tâm kiến tánh,
Trí tuệ sáng suốt,
Thần thông tự tại,
Đặng cứu độ các bậc tôn trưởng,
Cha mẹ anh em,
Thân bằng quyến thuộc,
Cùng tất cả chúng sanh,
Đồng thành Phật đạo.
b) Phải có ý thức. – Tức là tự biết và luôn luôn tỏ ra mình là Phật tử trong bất cứ trường hợp nào. Ý thức này ta phải bộc lộ thực sự ra bề ngoài bằng cách đeo tượng Phật vào cổ, bằng cách kính chào liệt vị Tăng già, bằng cách niềm nở với những người Phật tử của mình. Chúng tôi công kích thực sự và chúng tôi nhận thấy rất hợp lý trong sự công kích đó, là cho những người Phật tử mà không tỏ ra mình là một Phật tử như trên đây, thì dẫu vô ý hay vô tình, cũng không còn đáng được gọi là Phật tử nữa. Chúng ta không cần phải nói đến cái vinh dự của một Phật tử mà chúng ta đã có diễm phúc được làm. Không bao giờ chúng ta phải nói đến vinh dự hay cần vinh dự. Nhưng thực tế, khi tỏ ra mình là một Phật tử thì ý thức ấy nó nhắc nhở ta nhớ những nghĩa vụ và trách nhiệm mà mình phải có. Chính ý thức đó là một sức mạnh ngưng lại tất cả ý nghĩ, ngôn ngữ và hành động bất chánh của mình, đồng thời, nó kích động cho mình một cách tự nhiên những hoạt động cùng những ý tưởng hợp lý. Quên mình là Phật tử thì tất cả những gì một Phật tử phải có, mình sẽ quên hết. Vì vậy, luôn luôn ta phải có ý thức mình là Phật tử và luôn luôn trong mọi trường hợp, phải công nhiên, thẳng thắn, tỏ ra mình là Phật tử đây.
Cái cây sống và lớn được là nhờ nó hút lấy các chất dinh dưỡng và tạo thành trong nó những nhựa sống. Cũng y như thế đó, sự tụng niệm là thu hút vào mình những thứ của chánh pháp quí giá để tạo thành ý thức Phật tử, nhựa sống cần thiết cho đời sống ý nghĩa. Phật tử sẽ mất hết tất cả quy y, giữ giới, mất hết tất cả tín ngưỡng minh chánh và hành động hiệu lực mà luôn theo đó mục đích hợp lý cũng tan nát, nếu hằng ngày không có sự tụng niệm và quên mình là Phật tử ngay trong tâm niệm, trong mọi trường hợp. Như những viên gạch chắc chắn xây thành lầu đài đồ sộ, chính sự tụng niệm trong hằng ngày và ý thức Phật tử trong tâm niệm ấy tạo nên đời sống ý vị hoàn toàn. Mạch máu làm sống cơ thể như thế nào, những sự sinh hoạt vi tế ấy làm sống cuộc đời ý nghĩa cũng y như vậy.
Huống chi sự tu hành chính là sự huân tập, nghĩa là xông ướp dần dần mình vào trong hương hoa vô thượng của Chánh pháp, biến khí vị tội ác, si mê và buông xuôi của nó thành hương thơm từ bi, trí tuệ và nỗ lực. Mà sự tụng niệm như trên, như chúng ta đã thấy, là ôn đọc lại những chánh pháp mà Phật đã huấn thị, là tưởng niệm những đức tánh cao cả mà ngài có, và thâm vào ý thức Phật tử luôn luôn nhắc nhở mình là con Phật, mình phải làm gì và nghĩ gì, thì chính đó: tất cả sự huân tập mà do nó, và chỉ có nó, tạo thành đời sống đầy ý nghĩa. Cho nên, bằng tất cả kiên nhẫn cần thiết, ta phải huân tập hương hoa của chánh pháp vào đời mình trong sự sinh hoạt hằng ngày và trong tâm niệm, trong mọi trường hợp. Nói cho khắc thực thì sự tu tập là tự chiến thắng tâm lý của mình. Mà sự tự chiến thắng tâm lý chính là sự tụng niệm và ý thức Phật tử. Đức Phật có dạy “trải qua vô số kiếp, tôi chiến thắng tâm lý mà tự đưa mình đến địa vị giác ngộ tối thượng”. Giờ đây, khoan nói đến sự giác ngộ tối thượng, ngay đời sống ý nghĩa mà chúng ta ước vọng, cũng chỉ thành tựu được do sự tự chiến thắng tâm lý của mình mà thôi.
Bài thứ 7. MỘT BỔN PHẬN THIÊNG LIÊNG VÀ CẤP BÁCH
Bổn phận ấy là bảo vệ chánh pháp. Nhờ chánh pháp của Phật mà chúng ta biết rõ sự thật cuộc đời của chúng ta, chúng ta biết quay đời mình về ánh sáng, chúng ta biết cả đến phương pháp để thực hiện mục đích ấy, nên đối với chánh pháp, bổn phận thiêng liêng và cấp bách mà chúng ta phải có là tận lực bảo vệ bằng mọi tiềm lực nào ta có.
Nhưng làm cách nào mới bảo vệ được chánh pháp? Thì điều kiện căn bản vẫn là sự thực hành vào đời sống của mình. Chánh pháp tồn tại hay không là ở chỗ có biểu hiện ra nơi đời sống hay không. Bởi vậy, muốn chánh pháp tồn tại, bổn phận thiết yếu và căn bản của chúng ta là trước hết phải tu tập chánh pháp, áp dụng và thực hiện chánh pháp vào chính đời sống của mình.
Từ công việc căn bản đó, sự bảo vệ chánh pháp một cách thiết tha của ta sẽ cho ta thấy có thể có lúc ta phải hy sinh năng lực, hy sinh tài sản, hy sinh tánh mạng. Phải đem tài đem sức của mình ra phục vụ chánh pháp. Hãy bỏ của bỏ tiền ra xây dựng lấy lâu đài của chánh pháp. Vì chánh pháp, lúc cần, ta phải xả bỏ tánh mạng thực sự. Đức Phật có dạy rằng đem năng lực, tài sản và tánh mạng mà bảo vệ chánh pháp thì thế là đem 3 thứ không kiên cố và tánh mạng kiên cố đó. Lý luận và thực tế chứng minh cho ta thấy không dùng vào việc bảo vệ chánh pháp thì năng lực, tài sản và cả tánh mạng nữa cũng chẳng còn. Ba thứ thế này là 3 lợi khí mà ác thay, thiện hay ác đều do chính chúng nó tạo ra. Vậy không đem chúng nó hiến cho chánh pháp, sống vì chánh pháp, thì chúng sẽ phục vụ cho dục vọng. mà phục vụ dục vọng thì quả như lời Phật phán dạy: “không bao lâu ta đã thất chúng hao mòn và tiêu diệt mà tai hại của chúng gây ra thì không phải chỉ khổ một đời, thực họa đến cả muôn kiếp”. vậy ta nên học cái khôn của kẻ trí giả khi ta có – nhất là có thể xử dụng được – năng lực tài sản và tánh mạng của mình bằng cách đem chúng ta phục vụ và bảo vệ Chánh pháp tối thượng mà đời ta nhờ đó sống có ý nghĩa đầy đủ.
Trong kinh điển còn ghi chép rất rõ những cố gắng, những hành động xả bỏ tánh mạng vì chánh pháp của chính đức Phật. Có lúc vỏn vẹn chỉ vì bài kệ như sau đây mà đức Bổn sư của chúng ta đã xả bỏ tất cả:
“Các hành vô thường,
Là pháp sanh diệt;
Sanh diệt diệt hết,
Tịch diệt an lạc”.
Người ta thấy từ đầu mắt đến tay chân, từ cơ thể đến tâm trí, từ năng lực đến tư tưởng, từ bản thân đến quyến thuộc, không một thứ chi đức Thầy chi giác tiếc cho chánh pháp. Ngài đã dạy như thế này trong một bộ kinh mang tên là Báo ân cha mẹ: Phải biết ân và trả ân cha mẹ. Mà cha mẹ là tất cả mọi người mọi vật: vậy muốn báo đáp ân đức tất cả thì phải hết lòng bảo vệ lấy chánh pháp. Và Ngài kết thúc tất cả hành động vì chánh pháp của Ngài, rằng ta đã thành Phật nhờ những hành động đó.
Ngày nay nhờ chánh pháp của Phật mà đời ta có ý nghĩa thì nghĩa vụ hợp lý nhất là ta phải bắt chước, phải học cái hạnh của Ngài, tận lực hộ trì chánh pháp để nhờ sự tồn tại của chánh pháp khiến cho bao nhiêu người khác cũng biết đường, biết cách sống đời sống có nghĩa. Và chính đó là cách vừa tri ân vừa báo ân Phật. Nên tôn giả A Nan có thề mà lời thề ấy, hằng ngày, trong những buổi sáng sớm, liệt vi Tăng già trân trọng tụng lại để cũng tự nguyện làm theo: “Đem thâm tâm phụng sự muôn loài, thế tức là báo đáp hồng ân Phật” Bảo vệ chánh pháp tức là trả ân xã hội và báo ân Phật đà, lại cũng chính đó là sự tu hành, là sự lợi tha.
Hiện giờ có một số Phật tử khá đông không thấy trách nhiệm của mình đối với sự tồn vong của chánh pháp. Họ cũng chẳng xác nhận rõ ràng tính cách vô cùng cần thiết của chánh pháp trước thời đại. Họ không biết rõ ràng rằng thời đại này, thời đại mà con người tranh nhau tung ra tất cả tham sân si để xâm lược, đàn áp và tàn sát lẫn nhau, thời đại ấy chỉ có chánh pháp chống lại tham sân si mới có hệiu lực đem lại hòa bình thực sự, một thứ hòa bình được nhổ tận gốc rễ tất cả nguyên nhân làm tan rã nó. Nhưng sự thực là như thế. Sự thực thế giới loạn là loạn trong tham sân si của con người và sự thực chỉ có chánh pháp chủ trương diệt tham sân si mới đem lại hòa bình cho con người. Cho nên bảo vệ chánh pháp chính thị là bảo vệ hòa bình mà nhân loại mong mỏi. Do tất cả lý do chinh xác này, tất cả nhu cầu cấp bách này, nghĩa vụ bảo vệ chánh pháp bằng cách áp dụng vào đời sống, bằng cách đổ hết năng lực ra mà phụng sự, nghĩa vụ ấy là nghĩa vụ thiêng liêng bậc nhất của đời người Phật tử đối với hòa bình.
Do tính cách thiêng liêng của nghĩa vụ đó, người Phật tự tự thấy cái vinh quang cũng như cái tủi nhục của đời mình lệ thuộc hẳn vào cái vinh cái nhục của chánh pháp. Người Phật tử tự tạo cho mình cái ý thức vô cùng hợp lý, xem “mình là của chánh pháp, chánh phap là của mình” và họ hành động theo ý thức đó.
Bài thứ 8. MỘT VIỄN ẢNH KHÔNG XA
Phải là một viễn ảnh nhưng một viễn ảnh không xa lắm, khi ta đã có tất cả đềiu kiện cần thiết để tạo ra viễn ảnh ấy.
Viễn ảnh ấy là đời sống ý nghĩa. Đời sống ấy là hình ảnh của tất cả hạnh phúc tinh khiết, chân thật, mà loài người mong mỏi. Đời sống ấy đã không tạo ra bằng sự tranh đấu với nhau thì kết quả cũng tuyệt hết mọi hình thức xâm phạm hạnh phúc của nhau. Đời sống ấy chỉ phản ảnh, chỉ hình thành những tự do, những bảo đảm mà loài người chúng ta tha thiết ham muốn một cách hợp lý. Đời sống ấy, viễn ảnh ấy không xa xôi gì, mà chúng ta quay đời mình về chánh pháp, sống một cách ý nghĩa. Cho nên cổ nhân Phật giáo có câu “bể khổ tuy mênh mông nhưng quay đầu lại thì chính đó là bờ bến”.
Các chủ nghĩa và các tôn giáo khác cũng có đề ra thế giới vị lai của họ. Bên cạnh cái mô hình xã hội mới có nước chúa là thiên đường, trong nách cái tự do phóng túng có cái trật tự khó chịu. Nhưng, những thế giới vị lai như vậy không xây dựng trên kinh tế thì phát sanh từ ảo vọng, không bản ngã thì pháp luật, những thứ này có gì khác ngoài bản chất dục vọng đâu. Đã do dục vọng tạo ra thì cũng do dục vọng mà phá sản. Trong khi đó lý luận và thực tế chứng minh rằng thế giới vị lai cũng vẫn là thế giới của con người, do bàn tay con người xây dựng, do chính con người quyết định. Nói khác đi, con người thế nào thì thế giới con người sẽ y như thế đó, nhất là thế giới đó là thế giới vị lai tốt đẹp thì vấn đề chánh là phải cải thiện cái gốc: cải thiện con người. Không đủ. Phải nói cho rõ ràng là muốn thế, con người phải tự mình cải thiện lấy mình mới được. Con người tự cải thiện thì đồng thời, mọi thứ pháp luật, kinh tế, chính trị, văn hóa, trong tay con người tự cải thiện, những thứ đó đều biến thành phương tiện vi diệu để xây dựng một thế giới vị lai, xây dựng một đời sống ý nghĩa. Không có sự tự cải thiện như vậy thì tất cả những thứ này, đảo lại, như ta đã thấy và chắc chắn còn thấy mãi, biến thành những lợi khí giết chết tất cả tự do và bảo đảm nào con người cần có để sống. Chữ Khổ luôn luôn được lịch sử xã hội loài người tự tay viết ra và đích thân làm chứng, là vì vậy chứ không chi khác.
Trái lại, nếu thế giới vị lai là một “đời sống ý nghĩa” thì đời sống ấy do chính nó tạo ra nó. Do đó, đời sống ấy là một thứ hòa bình bởi hòa bình, hòa bình ấy còn thiếu gì và tan rã sao được? Đời sống ấy, như trong kinh đã nói, “cái tên của đau khổ còn không có, nữa là có thực”.
Đời sống ý nghĩa, như ta đã biết, nó được tạo ra và được thành tựu trong chánh pháp chí thượng. Nội tam quy, tín ngưỡng minh chánh ấy sẽ giúp con người vừa chánh lại tất cả tư tưởng của mình vừa phát triển hết thảy giá trị của mình. Nội giữ giới, lối hành động hiệu lực đó sẽ diệt trừ hết tất cả nguyên nhân nào đã tạo ra chiến tranh, tạo ra đàn áp, tạo ra tai họa, và sẽ giúp con người hoàn thành tất cả mọi phương diện tâm đức tiến hóa, tri thức tiến hóa và năng lực tiến hoá của mình. Nội vài phương pháp cải thiện tối thiểu không thôi cũng đủ sức, cũng thừa mãnh lực giúp con người sống đời sống ý nghĩa, đạt đến ý nghĩa hoàn toàn của đời sống ấy. Hay nói khác đi, một viễn ảnh thế giới vị lai đầy hương hoa của chánh pháp sẽ không xa lắm khi con người tự biết cải thiện lấy mình bằng chánh pháp.
Nhân loại ngày nay thực đã có thể nói với lịch sử của chính mình rằng mình khổ lắm rồi. Hết khổ với những nỗi khổ não nhân loại gây ra cho nhau thì khổ bởi những khổ nỗi não của chính mình tự tạo ra cho mình. Thêm vào, nhân loại lại mược cái danh trời đất thần thánh, lại nhân cái cớ thế giới vị lai mà gạt gẫm, mà lầm lẫn lôi nhau vào thảm họa, hai cái ấy mới thực đại mâu thuẩn nhau. Các chủ nghĩa bảo nhân loại rằng thế giới vị lai của họ là hòa bình, là bánh mì, cơm áo, tự do, là tất cả. Nhưng điều kiện là phải tranh đấu theo chủ nghĩa của họ! Chữ tranh đấu mới đầy đủ làm sao. Đầy đủ tất cả, không thếiu một thủ đoạn ấy nó vừa giết chết sự tự tranh đấu với tham sân si, vừa gây thành những ngọn lửa dữ thiêu đốt ra tro bụi tất cả thực tế và hy vọng của con người về tự do và bảo đảm. Cho nên bên cạnh sự mơn trớn của chủ nghĩa, nanh vuốt của thực tế lại tàn nhẫn báo cho loài người thấy viễn ảnh tương lai là một cửa tử đen ngòm, một cửa tử mà địa ngục, bể khổ, thoái hóa, vô tổ chức, chiến tranh và hổn loạn, tất cả những danh từ ấy không thứ nào có thể hình dung đầy đủ. Mà viễn ảnh ấy hiện giờ đang ám ảnh nặng nề, đang khủng bố thực sự, đang xảy ra, tuần tự có, đột nhiên có, như chúng ta đang thấy và đang chịu đây.
Trong khi viễn ảnh vị lai ám ảnh và khủng bố loài người như vậy thì đời sống ý nghĩa, đời sống hướng về chánh pháp, đời sống ấy đối với loài người quả thực đúng như lời của Phật đã dạy “chánh pháp xuất hiện là vì loài người khổ não, đen tối”. Bởi vậy, “đời sống ý nghĩa” quả là một thế giới vị lai đầy ánh sáng và là một viễn ảnh không xa khi ta quyết chí hồi đầu, sống đời sống ý nghĩa ấy theo chánh pháp của Phật chỉ thị. Đời sống ý nghĩa, một viễn ành huy hoàng, một vị lai tinh tú, sẽ đến và đến vĩnh viễn với chúng ta do chính bàn tay chúng ta tự cải thiện lấy con người của mình.
2. 2. PL 2498
Ảnh minh họa: Quảng Hương Già Lam (nguồn: Lam Điền)