Hạnh Ðầu-đà của con đường thanh tịnh (Ni sư Trí Hải dịch Việt)

Trích Thanh Tịnh Ðạo – Visudhi Magga, Phần I, Chương II..
Thanh Tịnh Ðạo là một bộ sách tu học dựa trên giáo lý nguyên thủy,
do Luận sư Buddhaghosa (Phật Âm) trước tác vào thế kỷ 5, TL


Hạnh Ðầu-đà (Khổ Hạnh)
(Dhutanga-niddesa)

1.
Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnh để kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ v.v… nhờ đó giới, như đã mô tả, được thanh tịnh. Vì khi Giới của vị ấy đã được thanh lọc khỏi các cấu uế bằng những thứ nước thiểu dục, tri túc, viễn ly, độc cư, ở những trú xứ vắng, tinh cần, ít nhu cầu, thì giới sẽ trở nên hoàn toàn thanh tịnh, vị ấy sẽ thành tựu, tất cả những ước nguyện của mình. Và khi toàn thể con người đã được thanh lọc bằng công đức giới và nguyện vào đã an trú trong ba thánh tài đầu tiên, vị ấy bây giờ có thể xứng đáng đạt đến gia tài thứ tư gọi là “sự hân hoan trong tu tập” (Tăng chi ii, 27). Bởi vậy, chúng ta sẽ khởi sự giải thích các khổ hạnh.

Mười ba khổ hạnh

2.
Ðức Thế Tôn đã cho phép thực hành 13 khổ hạnh cho những thiện nam tử đã từ bỏ những chuyện xác thịt và không kể thân mạng, mong muốn tu tập phù hợp với cứu cánh giải thoát. Mười ba khổ hạnh là:

1) hạnh phấn tảo y
2) hạnh ba y
3) hạnh khất thực
4) hạnh khất thực từng nhà
5) hạnh nhất tuệ thực
6) hạnh ăn bằng bát
7) hạnh không để dành đồ ăn (không nhận đồ ăn sau khi đã ăn xong)
8) hạnh ở rừng
9) hạnh ở gốc cây
10) hạnh ở giữa trời
11) hạnh ở nghĩa địa
12) hạnh nghỉ chỗ nào cũng xong
13) hạnh ngồi (không nằm)

3.
Sau đây sẽ trình bày về: (1) ý nghĩa; (2) đặc tính; (3) thọ giới, chỉ dẫn, cấp bực, sự phạm giới và những lợi ích của mỗi hạnh; (4) ba tánh; (5) phân biệt “người khổ hạnh”, “người thuyết giảng khổ hạnh”, “các pháp tương ưng với khổ hạnh”, “các khổ hạnh” và khổ hạnh thích hợp với hạng người nào; (6) theo nhóm; và (7) riêng biệt.

4.
(1) Trước hết là ý nghĩa:

i) Gọi là phấn tảo (pamsukùla – bụi bặm) vì nó được tìm ở những đống rác bên đường, nghĩa địa, đống phân (midden), nó thuộc về đồ bỏ tại các nơi ấy. Hoặc nó đang tiến đến một tình trạng tồi tệ như đồ bỏ (Pamsu viya kucchita-bhàvamulati) cho nên gọi là phấn tảo y.

ii) Ba y là áo khoác ngoài gồm những miếng vải chắp nối lại, thượng y và hạ y.

5.
iii) Sự để rơi (pàta) những mẩu đồ ăn (pinda) gọi là khất thực, pindapàta. Thu nhặt đồ khất thực từng nhà, gọi là ăn đồ khất thực. Hoặc vị ấy phát hiện thu lượm (patati: nhặt – nghĩa này không có trong tự điển của hội Pàli Text) những miếng ăn (pinda) nên gọi là người thu nhặt đồ ăn, hay người khất thực (pindapàtin). Sự thực hành này gọi là hạnh khất thực để sống.

6.
iv) Hạnh thứ đệ khất: khe hở hay khoảng trống gọi là avakhandana hay dàna. Dời khỏi chỗ trống (apeta: dời khỏi ) hoặc không chỗ trống, không hở, là apadàna. Người đi từ nhà này đến nhà khác không chừa một nhà nào khoảng giữa, gọi là sapadànacàrin, tức là hạnh khất thực từng nhà, thứ đệ khất.

7.
v) Ăn một lần mà thôi, đứng lên rồi, không ngồi xuống ăn lại, gọi là hạnh nhất tọa thực (ăn ngày một bữa)

vi) Chỉ ăn những gì đã xin được trong bát, không nhận thêm bát thứ hai, gọi là người ăn bằng bát, (pattapindika).

8.
vii) “Khalu” có nghĩa từ chối, không nhận. Ðồ ăn mà vị ấy nhận được sau khi đã ăn xong gọi là tàn thực (pacchàbhatta). Người không ăn đồ ăn như thế gọi là khalu- pacchàbhattika, không nhận đồ ăn sau khi ăn xong. Nhưng trong Luận nói: “Khalu là tên một giống chim khi mổ một trái cây để ăn, mà trái ấy rớt thì thôi ăn. Vị tỳ-kheo này cũng vậy.

9.
viii) Vị ấy quen sống ở rừng nên gọi là hạnh ở rừng.

10.
ix) Sống dưới gốc cây nên gọi là hạnh ở gốc cây.

x-xi) Ở ngoài trời và ở nghĩa địa, cũng thế.

xii) Những gì được phân phối (cho mình) gọi là “như được phân phối” (yathà-santhata). Ðây là một từ ngữ chỉ chỗ nghỉ ngơi được phân phối cho vị tỳ kheo. Người nghỉ ở chỗ được phân phối cho mình gọi là một người sử dụng đồ nằm như được phân phối (yathàsanthatika) người theo hạnh này gọi là hạnh nghỉ chỗ nào cũng được.

xiii) Vị ấy có thói quen ngồi mà ngủ, không nằm gọi là hạnh ngủ ngồi.

11.
Tất cả những hạnh kể trên gọi là hạnh (anga) cùa một tỳ kheo theo khổ hạnh (dhuta, đầu-đà) bởi vì vị ấy đã rũ bỏ (dhuta) cấu uế bằng cách thọ trì một trong những khổ hạnh ấy. Gọi là “đầu-đà” (dhuta) vì nó rũ sạch (niddhunana) chướng ngại, gọi là hạnh ( anga ) vì nó là con đường (patipatti). Trên đây là trình bày ý nghĩa.

12.
(2) Tất cả 13 khổ hạnh trên đều có đặc tính là ý nguyện thọ trì. Luận nói: “Người thọ giới là một con người. Cái nhờ đó nó thọ giới được là tâm và tâm sở. Chính ý chí trong hành vi thọ giới gọi là hạnh đầu-đà. Tất cả 13 hạnh đều có công dụng là loại trừ tham dục và hiện tứ của chúng là vô tham. Nguyên nhân gần của chúng là những đức thiểu dục…

13.
(3) Trong thời Phật tại thế, tất cả khổ hạnh đều phải được thọ trì trước mặt đức Thế Tôn. Sau khi Ngài nhập Niết-bàn, phải thọ trước một vị đại đệ tử của Ngài. Khi không có vị này, phải thọ trước một người đã đoạn tận lậu hoặc, một bậc Bất hoàn, Nhất lai hay Nhập lưu, hoặc một người thông hiểu 3 tạng hoặc 2 tạng hoặc 1 tạng hoặc 1 người thông hiểu 1 trong 5 bộ Nikàya, 1 luận sư Nikàya. Không có 1 người như vậy thì phải thọ trước 1 vị đang hành 1 khổ hạnh. Nếu không có 1 vị như vậy thì nên quét dọn sạch sẽ điện thờ rồi ngồi mà thọ giới một cách kính cẩn như đang ở trước mặt đấng Ðạo sư. Như thế, có thể thọ giới đầu-đà một mình.

Ở đây có thể nhắc lại câu chuyện người anh trong 2 anh em vốn là 2 trưởng lão ở tu viện Cetiyapabbata, để biết thế nào là thiểu dục trong đầu đà hành đạo. Vị này theo khổ hạnh ngủ ngồi một mình mình biết. Một đêm kia, nhơn một làn chớp lóe, người em trông thấy ngài đang ngồi thẳng trên giường và hỏi: “Bạch đại đức, thế ra ngài theo khổ hạnh ngủ ngồi à?” Vì thiểu dục, không muốn để ai biết khổ hạnh của mình, vị ấy bèn nằm xuống (Vô ngại giải đạo 77). Ðiều này áp dụng cho mọi khổ hạnh.

14.
Bây giờ, ta sẽ tiếp tục bàn về sự thọ giới , những chỉ dẫn, các cấp bực, sự phá giới, và lợi ích của từng khổ hạnh.

i) Ðầu tiên là hạnh phấn tảo y: nó được thọ trì bằng cách thốt lên một trong hai lời nguyện này: “Tôi từ chối những y do gia chủ cúng” hoặc “tôi nguyện giữ khổ hạnh phấn tảo y”. Ðây là sự thọ giới.

15.
Một người đã thọ giới này nên mặc một y thuộc một trong những loại sau: vải lấy từ nghĩa địa, từ cửa hàng, từ đường cái, từ hố phân, từ giường trẻ, vải tẩy uế, vải từ chổ tắm, vải đi về nghĩa địa, vải bị cháy, bị gia súc ăn, bị kiến ăn, bị chuột ăn, vải rách ở biên, rách ở đầu, vải làm cờ, vải bỏ từ điện thờ, y của nhà khổ hạnh, vải từ cuộc lễ, vải do thần thông biến hóa, vải trên xa lộ, vải gió bay, vải do thiền thần bố thí, vải trôi giữa biển… Lấy một trong những thứ vải này vị ấy nên xé bỏ những mảnh rách nát, giặt sạch những mảnh lành lặn để làm thành một cái y. Vị ấy có thể dùng nó sau khi xả bỏ áo do thí chủ cúng.

16.
“Vải từ nghĩa địa” là vải rơi rớt ở nghĩa địa. “Vải từ cửa hàng” là vải rớt trước quán hàng. “Vải từ đường cái” là thứ vải mà những kẻ kiếm công đức thường ném qua cửa sổ xuống đường. “Vải từ hố phân” là vải bỏ thùng rác. “Vải ở giường trẻ” là vải bỏ sau khi lau những bất tịnh của sản phụ. Mẹ của đại thần Tissa lau những bất tịnh bằng một mảnh vải đắt giá, nghĩ rằng những nhà khổ tu mặc phấn tảo y sẽ lượm, và quăng nó trên đường Tàlaveli. Các tỷ kheo lượm vá y.

17.
“Vải tẩy tịnh” là vải mà những vị phù thủy bắt bệnh nhân dùng để tắm rửa từ trên đầu trở xuống rồi vứt đi như vứt một sự xui xẻo. “Vải từ chỗ tắm giặt” là những giẻ rách vứt bỏ ở chỗ tắm. “Vải đi về nghĩa địa” là vải bỏ sau khi đến nghĩa địa, trở về tắm rửa. “Vải bị cháy” là vải vì cháy một ít mà người ta vứt đi. “Vải gia súc ăn, chuột ăn” v.v… nghĩa đã rõ. “Vải làm cờ”: những người xuống tàu ra khơi thường tung lên một cái cờ rồi mới đi. Khi tàu đi khuất, có thể lượm cái cờ này. Lại nữa, khi hai bên quân đội đã đi khuất, có thể lượm cờ đã được tung ra giữa chiến địa.

18.
“Vải từ điện thờ” là một tấm vải cúng phủ trên tổ kiến. “Vải của nhà khổ tu” là y của tỳ kheo. “Vải từ một cuộc lễ” là vải vứt bỏ ở chỗ làm lễ tấn phong vua. “Vải do thần thông hóa hiện” là tấm y do phép Phật biến hóa lúc Ngài nói “Thiện lai tỷ kheo” (Ehi bhikkhu). Trong một vài trường hợp lúc Phật còn tại thế, Ngài chứng minh sự xuất gia của một người bằng cách chỉ nói mấy tiếng “Lại đây, tỷ kheo”. Do công đức đời trước của vị ấy, pháp phục tự nhiên xuất hiện một cách mầu nhiệm trên người ông. “Vải từ xa lộ” là vải rơi rớt giữa đường. Nhưng nếu vì sơ ý mà chủ nhân làm rớt, thì phải chờ một lúc mới được phép nhặt lên. “Vải gió bay” là vải theo gió bay một đỗi xa mới rớt xuống, được phép lượm nếu không thấy chủ. “Vải do chư thiên cúng” là vải chư thiên cúng cho tỷ kheo như trường hợp tôn giả Anuruddha. “Vải trôi giữa biển” là vải sóng biển đánh tắp vào bờ.

19.
Một tấm vải được cúng với lời nói “Chúng tôi cúng cho chư tăng”, hoặc do người đi xin vải kiếm được, thì không phải vải bỏ. Vải do một tỷ kheo tặng, vải do nhận được trong lễ dâng y do một tỷ kheo tặng lại, vải do thí chủ cúng cho một vị ở trú xứ nào đó, đều không phải vải phế thải. Vải bỏ là thứ vải được từ một người cho đã không sở hữu nó với những cách nói trên. Vải do một thí chủ đặt dưới chân tỷ kheo, rồi tỷ kheo này đem cho người lập hạnh mặc y phấn tảo bằng cách để vào tay vị ấy, gọi là chỉ thanh tịnh một chiều. Hoặc thí chủ để vào tay một tỷ kheo, tỷ kheo đem đặt dưới chân vị khổ hạnh, cũng gọi là chỉ thanh tịnh một chiều. Vải đặt dưới chân tỷ kheo, tỷ kheo đem đặt dưới chân nhà khổ hạnh, gọi là thanh tịnh hai chiều. Vải mà người cho đã nhận được bằng tay, nhà khổ hạnh cũng nhận bằng tay, thì không phải là hạnh phấn tảo y chặt chẽ. Như vậy, nhà khổ hạnh cần sử dụng y sau khi biết rõ những loại vải.

20.
Và đây là những cấp bực. Có ba hạng: hạng chặt chẽ, trung bình và thường. Người lượm vải ở nghĩa địa gọi là hạng chặt chẽ. Người lượm vải do một người bỏ ra với ý nghĩ “một tỷ kheo sẽ lượm ” gọi là hạng trung bình. Và người lấy vải do một tỷ kheo cho mình bằng cách đặt dưới chân, là hạng thường. Lúc nào người ấy bằng lòng nhận một tấm y từ gia chủ, thì hạnh phấn tảo y của ông bị phá. Ðây là phá giới ở trường hợp này.

21.
Và đây là những lợi ích. Vị ấy làm đúng theo hạnh. Tùy thuận, như câu: “Xuất gia bằng cách tùy thuộc vào y phấn tảo” (Luật i 58,96) ; vị ấy an lập trong thánh tài thứ nhất (Tăng chi ii, 27); không có sự đau khổ do phải giữ gìn; vị ấy sống không tùy thuộc vào người khác; không sợ trộm cướp; không có thèm muốn liên hệ đến y phục; đó là một điều kiện thích hợp cho một ẩn sĩ; được Thế-tôn tán thán vì “không giá-trị, dễ kiếm, và không lỗi” (Tăng chi ii, 26) nó làm cho người ta tin cậy; nó phát sinh những hậu quả ít muốn, biết đủ v.v…; chánh đạo được tu tập; làm tấm gương cho hậu lai.

22.
Khi nỗ lực đánh bạt đạo quân Tử-thần,
nhà khổ hạnh quấn y bằng giẻ rách
lượm từ đống rác, vẫn sáng chói
như tướng sĩ lâm trận mặc giáp sắt.
Y phấn tảo này chính đấng Thiên Nhân Sư cũng mặc
từ bỏ hàng Kàsi quý giá cùng những thứ khác.
Vậy, ai mà không nên mặc Y bằng giẻ lượm từ đống rác?
Nhớ lời đã phát nguyện khi ra đi sống kiếp không nhà
Hãy hân hoan mặc y phấn tảo
như người ta trang sức xiêm y mỹ lệ.

Ðấy là thọ giới, chỉ dẫn, cấp bực, sự phạm giới, và những lợi lạc trong khổ hạnh phấn tảo y.

23.
ii) Kế tiếp, hạnh ba y. Giới này được thọ trì bằng cách nói: “Tôi không nhận cái y thứ tư” hoặc “Tôi giữ giới mặc ba y”. Khi một người thọ giới này được vải để làm y, vị ấy có thể giữ nó trong thời gian vì thiếu sức khỏe không thể may y, hoặc vì chưa tìm ra người giúp, vì thiếu kim, v.v… thì cất giữ vải không có lỗi. Nhưng khi y đã được nhuộm thì không được cất giữ vải. Ðó là khổ hạnh bịp. Ðây là sự chỉ dẫn.

24.
Về hạnh ba y cũng có ba cấp bậc. Người theo khổ hạnh ba y một cách nghiêm nhặt thì trong lúc nhuộm, trước phải nhuộm hoặc y trong hoặc thượng y, nhuộm cái này xong, quấn nó ngang lưng mà nhuộm cái khác. Xong, vắt nó lên vai mà nhuộm y khoác ngoài bá nạp. Nhưng vị ấy không được quấn y bá nạp quanh thất lưng. Ðây là luật khi ở một trú xứ tại xóm làng, nhưng ở rừng thì có thể nhuộm, giặt cả ba y một lượt nhưng phải ở gần để nếu thấy người thì có thể kéo một tấm mà đắp lên mình. Ðối với người theo cấp bậc trung bình thì có thể dùng một tấm vải vàng để trong phòng nhuộm đắp lên mình trong khi giặt nhuộm. Ðối với người theo cấp bực ba (lỏng lẻo) thì có thể mặc hay khoác y của tỷ kheo trong hòa hợp chúng (nghĩa là, vị nào không bị phạt v.v…) để giặt nhuộm.Một tấm vải trải giường bỏ không, cũng có thể dùng song không được mang theo. Vị này cũng có thể thỉnh thoảng sử dụng y của tỷ kheo trong hòa hợp chúng. Người theo khổ hạnh ba y còn có thể dùng một tấm vải vàng che vai kể như y thứ tư, không được rộng quá một gang, dài quá chiều dài 3 bàn tay.

Lúc nào người theo một trong ba cấp-bực khổ hạnh ấy tự động nhận một tấm y thứ tư, thì khổ hạnh bị hỏng. Ðây là sự phá giới trong trường hợp này.

25.
Khổ hạnh ba y có những lợi lạc như sau. Vị tỷ kheo thọ trì khổ hạnh này xem y phục chỉ như vật che thân. Vị ấy đi đâu cũng chỉ mang theo ba y như chim mang đôi cánh (Trung i, 180); kiện toàn các đức như ít vật dụng, không tích trữ vải, sống đạm bạc, từ bỏ tánh tham y phục, sống viễn ly, tiết độ ngay cả đối với những gì hợp pháp, phát sinh tính ít muốn biết đủ v.v…

26.
Không lo sợ tích trữ
Không giữ quá ba y
Bậc trí thưởng thức được
Hương vị của hỉ túc
Du hành không chướng ngại
Như chim bay hư không
Chỉ mang theo hai cánh
Tỷ kheo nên hoan hỉ
Hạnh đạm bạc ba y.

27.
iii) Hạnh khất thực được thọ trì bằng cách thốt lên như sau: “Tôi không nhận đồ ăn để dành (tàn thực)” hoặc: “Tôi thọ trì hạnh khất thực hàng ngày”. Người đã thọ giới này không được nhận 14 thứ thực phẩm như sau: bữa ăn cư sĩ cúng dường cho chư tăng, bữa ăn cúng cho một số tỷ kheo đặc biệt, bữa ăn do người ta mời, bữa ăn được mời bằng một phiếu ăn, bữa ăn vào ngày lễ Trai giới Uposatha (bố-tát), bữa ăn vào ngày nửa tháng, bữa ăn vào ngày đầu nửa tháng, bữa ăn dành cho khách, bữa ăn cho kẻ lữ hành, bữa ăn cho người bệnh, bữa ăn cho kẻ nuôi bệnh, bữa ăn cúng cho một trú xứ nào đó, bữa ăn được bố thí tại một ngôi nhà chính, bữa ăn cúng theo thứ tự.

Nếu, thay vì nói “Xin thỉnh đại đức dùng một bữa ăn cúng cho chư tăng” thí chủ lại nói “Chư tăng đang khất thực tại nhà tôi, đại đức có thể đến khất” thì có thể nhận lời. Những phiếu tăng chúng phát ra không phải về thực phẩm mà về các vật khác (thuốc men v.v… ) hoặc một bữa ăn được nấu trong một tu viện, nhà khổ hạnh đều được dùng.

28.
Giới này cũng có ba bực. Người khổ hạnh cấp một (khắt khe) nhận đồ ăn do người ta đem lại từ phía trước mặt và sau lưng (đi quá rồi thí chủ mới chạy theo cúng), và đưa bát cho thí chủ rồi đứng chờ ngoài cổng. Vị ấy cũng nhận đồ ăn mang lại cúng dường tại nhà ăn nhưng vị ấy không nhận đồ khất thực bằng cách ngồi đợi người ta mang đến. Người khổ hạnh cấp hai thì ăn đồ ngồi đợi mang đến (trong ngày hôm đó) nhưng không ăn đồ người ta hứa mang lại cúng hôm sau. Người theo khổ hạnh cấp ba bằng lòng ăn đồ ăn được hứa mang đến hôm sau, và hôm sau nữa. Cả hai hạng sau đều mất cái thú hưởng một cuộc đời độc lập. Ví dụ có thể có một buổi thuyết- pháp về Thánh tài ở một thôn ấp nào đó (Tăng chi ii, 28). Người cấp một bảo hai hạng kia: “Chư hiền, chúng ta hãy đi nghe pháp”. Một người bảo: “Bạch đại- đức, tôi đã được một thí chủ bảo ngồi đây đợi”. Người cấp hai bảo: ” Bạch đại đức, tôi đã nhận lời mời ăn đồ khất thực ngày mai”. Bởi thế cả hai vị này đều mất mát. Còn vị đầu tiên thì cứ đi khất thực vào buổi sáng, rồi đi thẳng đến chỗ nghe pháp, thưởng thức pháp vị.

Lúc một trong ba hạng ấy bằng lòng với một lợi dưỡng ngoài phạm vi nói trên, nghĩa là ăn đồ cúng cho chúng tăng, v.v… thì khổ hạnh bị phá.

29.
Hạnh khất thực có những lợi lạc như sau. Vị ấy làm đúng như Luật dạy, “xuất gia tùy thuộc vào sự nuôi sống bằng khất thực”; vị ấy an lập trong thánh tài thứ hai; Sự sống của vị này không lệ thuộc vào kẻ khác, và Thế Tôn đã ca ngợi đồ ăn khất thực là “không giá trị, dễ kiếm và không lỗi” (Tăng chi ii, 26); sự phóng dật được trừ khử, mạng sống được thanh tịnh, việc thực hành những học pháp thuộc tiểu giới được viên mãn; vị ấy không do một người khác nuôi sống (không nhờ vào, lệ thuộc vào một người nào) vị ấy giúp đỡ mọi người, từ bỏ kiêu mạn, lòng tham vị ngon được chế ngự, không phạm những học giới liên hệ đến ăn. Ðời sống vị ấy phù hợp với những nguyên tắc thiểu dục tri túc v.v… tu tập chánh đạo, thương tưởng đến những đời hậu lai.

30.
Tỷ kheo vui khất thực
Ðời sống không lệ thuộc
Tham dục không chân đứng
Giải thoát như hư không
Tinh cần, không giải đãi
Mạng sống không lỗi lầm
Bởi vậy người có trí
Không khinh thường khất thực.

Vì kinh dạy:

“Nếu tỷ kheo có thể tự nuôi bằng khất thực
Sống không tùy thuộc vào sự giúp của riêng ai
Không màng đến danh dự
Lợi dưỡng chẳng đoái hoài
Thì đến cả chư thiên cũng thèm số phận Người”. (Phật tự thuyết 31)

31.
iv) Hạnh khất thực từng nhà được thọ-trì bằng cách phát nguyện: “Tôi không làm một vòng khất thực tham ăn” hoặc:”Tôi theo hạnh khất thực từng nhà”.

Người tuần tự khất thực này dừng lại ở cổng vào làng, nên biết chắc sẽ không có gì nguy hiểm. Nếu có nguy hiểm tại một con đường hay một làng nào, vị ấy được phép gạt bỏ nơi ấy để đi khất thực chỗ khác. Khi có một cái nhà, một con đường hay một khu làng nơi đó vị ấy thường xuyên không được thứ gì, thì có thể bỏ qua chỗ đó. Nhưng nơi nào có xin được chút đỉnh, thì sau đó không được bỏ qua chỗ ấy. Vị ấy nên đi vào làng sớm, để có thể bỏ ra ngoài những chỗ bất lợi và đi chỗ khác. Nếu có thí chủ đang cúng thức ăn cho chùa, hoặc đang đi giữa đường, lấy cái bát vị ấy để đặt thức ăn vào, vị ấy được phép nhận. Trên đường đi, không được bỏ qua khu làng nào. Nếu không xin được gì ở đấy hoặc rất ít, thì nên tuần tự khất thực ở các làng kế tiếp.

32.
Hạnh này cũng có ba bực. Hạng khất thực tuần tự một cách chặt chẽ thì không nhận đồ ăn mang đến từ trước mặt hoặc từ sau lưng, hoặc mang đến cúng tại nhà ăn. Nhưng vị ấy chìa bát tại một cửa nhà; vì trong khổ hạnh này, không ai sánh bằng trưởng lão Ðại Ca-Diếp, thế mà Ngài cũng có lần chìa bát như đươc thuật (Phật tự thuyết 29). Vị theo khổ hạnh cấp hai nhận đồ ăn đem đến từ trước, từ sau lưng, và tại nhà ăn, và vị ấy chìa bát tại một cửa nhà, nhưng không ngồi mà đợi đồ ăn khất thực. Như vậy, vị ấy làm đúng luật của người ăn đồ khất thực một cách chặt chẽ. Người khổ hạnh cấp ba thì ngồi đợi đồ ăn mang đến nội nhật hôm ấy.

Khổ hạnh của ba hạng nói trên bị phá khi họ khởi sự làm vòng khất thực tham ăn (bằng cách chỉ đến những nhà bố thí đồ ăn ngon lành ). Ðây là sự phạm giới trong khổ hạnh khất thực.

33.
Những lợi ích như sau. Vị ấy luôn luôn là một người khách lạ tại các nhà giống như mặt trăng (Tương ưng ii, 197); vị ấy từ bỏ sự tham lẫn và những gia đình; có lòng từ mẫn một cách bình đẳng; vị ấy tránh được những nguy hiểm của sự được ủng hộ bởi một gia đình duy nhất, vị ấy không thích thú trong sự mời ăn, không hy vọng đồ ăn được mang đến; đời sống vị ấy thích hợp với hạnh thiểu dục tri túc v.v…

34.
Tỷ kheo tuần tự khất
như trăng chiếu ngàn nhà nhìn luôn luôn mới mẻ
không tham, giúp mọi người thoát khỏi
mối nguy hiểm vì lệ thuộc một nhà

Muốn từ bỏ tham thực để du hành tùy thích
khi đi mắt nhìn xuống trước mặt một tầm cày
Tỷ kheo hãy thận trọng từng nhà tuần tự khất.

35.
v) Khổ hạnh nhất tọa thực được thọ trì bằng cách lập nguyện: “Tôi không ăn nhiều lần” hoặc “Tôi nguyện theo hạnh nhất tọa thực”.

Khi người theo khổ hạnh này ngồi xuống trong phòng ăn, thì phải ngồi đúng chỗ dành cho mình. Nếu giáo thọ sư hay y chỉ sư của vị ấy đến trong lúc bữa ăn chưa xong, vị ấy được phép đứng lên để chào. Nhưng Trưởng lão Tam tạng Cìla-abhaya nói: “Vị ấy nên ngồi mà ăn cho xong, hoặc nếu đứng lên thì phải bỏ đồ ăn còn lại” (để khỏi vi phạm khổ hạnh).

36.
Khổ hạnh này cũng có ba bực. Người theo cấp một (nghiêm nhặt) không được ăn nhiều hơn những gì mình đã lấy một lần vào bát. Nếu có người mang thêm bơ v.v…, có thể dùng làm thuốc chữa bệnh, chứ không để ăn. Người theo cấp hai có thể nhận thêm, nếu trong bát chưa hết, vì vị này là người “ngừng ăn khi đồ ăn trong bát đã sạch”. Người theo cấp ba có thể ăn bao lâu chưa rời chỗ, vị này là người “ngừng ăn theo nước” vì ăn cho đến khi lấy nước để tráng bát hoặc ngừng ăn theo chỗ ngồi, vì vị ấy ăn cho đến khi nào đứng dậy.

Khổ hạnh của cả ba hạng này bị phá khi họ ăn hơn một lần. Ðó là sự phá giới trong hạnh nhất tọa thực.

37.
Khổ hạnh ấy có những lợi lạc này: vị ấy ít bịnh, ít não, thân thể nhẹ nhàng, có sức khỏe, có một đời sống hạnh phúc, không vi phạm những học giới về ăn, loại trừ lòng tham vị ngon và sống thiểu dục tri túc.

38.
Không có bịnh do ăn
Tỳ kheo nhất tọa thực
Khỏi hy vọng vị ngon
Bỏ phế cả đạo nghiệp
Vị ấy được hạnh phúc
Tâm tư thật trong sáng
Thanh tịnh và viễn ly
Hưởng hiện tại lạc trú.

39.
vi) Hạnh ăn một bát: Ðược thọ trì với một lời nguyện: “Tôi từ chối bát thứ hai” hoặc “Tôi giữ hạnh ăn bằng bát”.

Khi ăn cháo, người theo khổ hạnh này được dùng cà-ri để trong một cái dĩa, vị ấy được phép hoặc ăn cà ri trước hoặc uống hết nước cháo trong bát rồi bỏ cà ri vào, vì nếu bỏ cà ri vào bát trộn chung với cháo thì sẽ rất khó ăn (lợm). Nhưng nếu đồ ăn không lợm thì phải để vào trong bát mà ăn. Khi lấy đồ ăn, nên lấy vừa phải lượng cần dùng bởi vì vị ấy không được lấy bát thứ hai.

40.
Khổ hạnh này cũng có ba bực. Cấp 1 thì trừ mía, không được ném bỏ rác bẩn trong khi ăn hoặc bẻ nhỏ các miếng ăn. Rác bẩn phải được vứt bỏ, đồ ăn phải được bẻ nhỏ trước khi ăn. Người theo cấp 2 được bẻ nhỏ đồ ăn trong khi ăn, vị ấy là “khổ hạnh ăn bằng tay”. Cấp 3 gọi là “khổ hạnh ăn bằng bát”, bất cứ gì để vào bát, vị ấy đều được phép trong khi ăn, bẻ nhỏ ra (cơm cục v.v…) bằng tay hoặc bằng răng (đường thốt-nốt, gừng v.v…).

Khi 1 trong 3 người nói trên bằng lòng nhận một bát thứ hai thì khổ hạnh của họ bị phá.

41.
Khổ hạnh này có những lợi lac sau: lòng tham nhiều vị được trừ khử, mong cầu thái hóa được từ bỏ, vị ấy thấy rõ mục đích và lượng thức ăn vừa đủ, không bận tâm mang theo soong chảo, đời sống vị ấy phù hợp với nguyên tắc thiểu dục tri túc, v.v…

42.
Vị ấy khỏi hoài nghi
Về những thức ăn khác
Nhìn bát ăn trang nghiêm
Dứt sạch lòng tham vị
Hài lòng tính tự nhiên
Chánh ý tâm hoan hỉ
Người khổ hạnh một bát
Ðược tư cách như trên.

43.
vii) Khổ hạnh không ăn đồ tàn thực (đồ nhận được sau khi đã ăn xong) được thọ trì bằng cách phát nguyện: “Tôi từ chối đồ ăn thêm” hoặc “Tôi thọ giới không ăn tàn thực”. Khi vị giữ hạnh này chứng tỏ mình đã ăn đủ thì không được nhận thức ăn để ăn.

44.
Có ba bực. Ở đây không có gì chứng tỏ vị ấy đã ăn vừa đủ với miếng đầu tiên, song khi đang nuốt miếng ấy mà từ chối, thì có sự chứng tỏ đã ăn đủ. Bởi thế, người theo cấp 1, khi đã chứng tỏ mình ăn vừa đủ thì không thể nhận miếng thứ hai để ăn sau khi nuốt miếng thứ nhứt. Người theo khổ hạnh cấp 2 thì cứ vẫn ăn sau khi đã nói thôi. Người theo cấp 3 có thể tiếp tục ăn cho đến khi rời khỏi chỗ.

Lúc nào 1 trong 3 người ấy ăn thêm sau khi đã ăn xong thì khổ hạnh bị hỏng. Ðây gọi là phá giới trong trường hợp này.

45.
Khổ hạnh này có những lợi ích như sau: Vị ấy khỏi lỗi liên hệ đến đồ ăn tàn thực, khỏi bị bội thực, khỏi cất giữ thức ăn, khỏi tìm kiếm thêm đồ ăn. Vị ấy sống đúng theo hạnh thiểu dục, tri túc v.v…

46.
Không ăn đồ tàn thực
Khỏi tìm kiếm nhọc công
Khỏi cất chứa đồ ăn
Và cũng không bội thực
Muốn tránh những lỗi này
Thì nên theo hạnh ấy
Ðược Thế Tôn ca tụng
Vì tăng trưởng hỉ túc.

47.
viii) Hạnh ở rừng được thọ trì với một lời nguyện: “Tôi không ở một trú xứ trong xóm làng” hoặc “Tôi lập hạnh sống ở rừng”.

48.
Người lập nguyện này phải rời bỏ trú xứ trong xóm làng để vào rừng lúc bình minh. “Trú xứ trong làng” có nghĩa là khu làng và phụ cận. “Làng” có thể gồm 1 hay nhiều nóc nhà tranh, có thể được bao quanh bằng tường hay không, có thể có người ở hay không, cũng có thể là một khu trại có người ở trong khoảng hơn 4 tháng. “Phụ cận” của làng là phạm vi một hòn đá rơi xuống do người có tầm vóc trung bình đứng ở cổng làng ném ra, nếu làng có cổng. Theo các Luật sư thì phụ cận là tầm ném đá của một thanh niên luyện cánh tay bằng cách ném đá. Theo luận sư căn cứ vào kinh, thì chỉ là tầm ném đá khi người ta đuổi quạ. Nếu làng không có tường ngăn ranh giới thì “phụ cận của nhà” là tầm nước rơi do một người đàn bà đứng từ cửa nhà ở bìa, bưng đổ hắt ra. Từ điểm nước rơi, tầm ném đá theo cách vừa kể gọi là làng. Từ chỗ này, trong phạm vi ném hòn đá thứ hai, là phủ cận làng.

49.
“Rừng”, theo định nghĩa của Luật là “Trừ làng và phụ cận, tất cả đất còn lại là rừng” (Luật iii, 46). Theo A-tỳ-đàm thì “Ra khỏi trụ mốc ranh giới làng gọi là rừng.” (Phân biệt luận 251). Nhưng theo kinh, thì đặc điểm của rừng là “Một trú xứ ở rừng là khoảng cách 500 độ dài của cái cung” (Luật iv, 183). Có nghĩa là phải đo bằng cung của người dạy bắn cung từ cột trụ cổng làng nếu có, hoặc từ một tầm đá ném nếu làng không cổng, cho đến bức tường của trú xứ tự viện ở rừng.

50.
Nhưng nếu tự viện không có tường thì theo các Luật giải, đo bằng cách lấy cái nhà ở đầu tiên làm ranh giới, hoặc lấy nhà ăn, chỗ họp, cây bồ đề, chánh điện làm ranh, dù cách xa nhà ở trong tự viện. Nhưng Luận Trung bộ nói bỏ vùng phụ cận của viện và của làng, khoảng cách phải đo là giữa hai tầng đá rơi.

51.
Ngay cả khi làng ở gần kề, có thể nghe tiếng người từ trong tự viện, tự viện ấy vẫn được xem là trú xứ ở rừng nếu khoảng giữa có những mỏm đá, sông v.v… ngăn cách không thể đi thẳng đến và độ dài khoảng cách đường thủy là 500 cung. Nhưng nếu người nào cố ngăn bít chỗ này chỗ kia trên đường vào làng, làm cho nó dài ra để có thể bảo rằng mình làm đúng luật thì đó là khổ hạnh bịp.

52.
Nếu y chỉ sư hay giáo thọ sư của hành giả bị bịnh và ở rừng không thể kiếm được những gì cần cho bịnh, thì có thể đưa thầy đến một trú xứ ở làng để săn sóc nhưng phải rời làng đúng lúc để trở lại rừng vào lúc rạng đông. Nếu cơn bịnh gia tăng vào lúc trời gần sáng thì hành giả phải lo cho vị thầy chứ không được bận tâm về sự giữ gìn khổ hạnh của mình.

53.
Khổ hạnh này cũng có ba bực. Cấp 1, người ấy phải luôn luôn trở về rừng vào lúc bình minh. Cấp 2, có thể cư trú tại 1 khu làng vào bốn tháng mùa mưa. Cấp 3, có thể ở làng luôn cả mùa đông.

Nếu trong thời gian đã định, 3 hạng nói trên rời rừng để đi nghe pháp tại một trú xứ ở làng, khổ hạnh của họ không bị hỏng nếu trở lại rừng đúng lúc bình minh, hoặc trên đường về vào lúc bình minh. Nhưng nếu giảng sư đã đứng lên mà vị ấy nằm 1 lát rồi ngủ quên khi mặt trời đã mọc, hoặc ở lại cố ý, cho đến khi mặt trời mọc, thì khổ hạnh ở rừng bị phá.

54.
Và đây là những lợi lạc trong khổ hạnh ở rừng. Một tỳ kheo ở rừng tác ý vào lâm tưởng (Trung, kinh 121) có thể đạt được ngay trong hiện tại định tướng chưa đạt, hoặc duy trì định tướng đã đạt. Bậc Ðạo sư hài lòng về vị ấy, như kinh nói: “Này Nàgita, ta hài lòng về vị tỳ kheo sống ở rừng” (Tăng chi iii, 343). Khi sống tại một trú xứ xa vắng, tâm hành giả không bị dao động bởi những sắc pháp không thích đáng v.v… Vị ấy khỏi những lo âu, từ bỏ bám víu vào đời và thưởng thức lạc thú độc cư. Hạnh đầu-đà khác như phấn tảo y v.v… dễ dàng tu tập đối với vị ấy.

55.
Ðộc cư nơi xa vắng
Làm cho tâm hân hoan
Ðấng Ðạo sư hài lòng
Vị độc cư rừng thẳm,
Người vui hạnh ở rừng
Lại được hưởng hương vị
Còn hơn cả giá trị
Hạnh phúc của vua trời.
Áo giáp y phấn tảo
Tung tăng trong rừng già
Lâm tuyền dễ thực hiện
Bao nhiêu hạnh đầu đà.
Tỳ kheo ấy chắc chắn
Làm quần ma kinh hoảng
Bởi thế người có trí
Nên vui hạnh ở rừng.

56.
ix) Hạnh ở gốc cây: Ðược thọ trì bằng cách thốt lời nguyện: “Tôi từ chối một mái nhà” hoặc “Tôi theo khổ hạnh ở gốc cây”.

Vị theo khổ hạnh này nên tránh những loại cây như sau: cây gần chỗ biên giới, cây có thờ cúng, cây cao su, cây ăn trái, cây có nhiều dơi, cây có lỗ hổng, cây đứng giữa một tự viện. Vị ấy có thể chọn một gốc cây ở phía ngoài một ngôi chùa. Ðây là chỉ dẫn.

57.
Khổ hạnh này cũng có ba bực. Cấp 1 không được phép quét dọn sạch sẽ gốc cây đã chọn, mà chỉ có thể dùng chân để hất đi những lá rụng trong khi ở. Người theo cấp 2 có thể nhờ 1 người nào đi ngang quét dọn gốc cây. Cấp 3 có thể sai những chú tiểu trong chùa quét, san bằng đất, rải cát, làm rào quanh gốc cây với một cái cổng vào. Ðến ngày lễ lạc, người ở gốc cây nên ngồi vào một chỗ nào khuất nẻo.

Lúc nào một trong ba hạng nói trên có trú xứ dưới một mái che thì khổ hạnh bị phá.

58.
Những lợi lạc là, vị ấy làm đúng theo Luật nói: “Xuất gia bằng cách tùy thuộc vào một trú xứ gốc cây” (Luật i, 58) được đức Ðạo sư tán thán, vì “không có giá trị, dễ kiếm và không lỗi” (Tăng chi ii, 26); tưởng về vô thường được khơi dậy khi thấy lá cây luôn thay đổi, sự tham chỗ trú và ưa xây cất không có mặt nơi vị ấy, vị ấy sống cộng trú với chư thiên, phù hợp nguyên tắc ít muốn, v.v…

59.
Ðức đạo sư ca tụng
Một trong những tùy thuộc
Chỗ nào bằng gốc cây
Cho người ưa tịch tĩnh?

Ðộc cư dưới gốc cây
Ðược chư thiên hộ vệ
Vị ấy sống chơn tu
Không tham về trú xứ.

Nhìn lá cây xanh non
Trở màu đỏ lục vàng
Lần lượt đều rơi rụng
Hết tin ở trường tồn.

Ðức đạo sư phú chúc
Gốc cây nơi vắng vẻ
Không người trí nào chê
Vì dễ quán sinh diệt.

60.
x) Hạnh ở ngoài trời: Ðược thọ trì bằng cách thốt lời nguyện: “Tôi từ chối mái nhà và gốc cây” hoặc “Tôi tu hạnh ở giữa trời”.

Người theo hạnh này được phép đi vào nhà Bố-tát để nghe pháp hoặc bố-tát. Nếu trong khi vị ấy đang ở trong nhà mà trời mưa, vị ấy có thể chờ hết mưa rồi đi ra. Vị ấy có thể vào nhà ăn, nhà bếp để làm phận sự hoặc vào dưới một mái che để hỏi những thượng tọa tỳ-kheo về một bữa ăn, vào để dạy hay học, để khuân vác đồ đạc từ ngoài. Nếu đang đi mang theo đồ dùng của các thượng tọa mà trời đổ mưa thì được vào một chỗ trú cho nhanh, nhưng nếu không mang gì cả thì phải đi với tốc độ bình thường vào chỗ trú. Luật này cũng áp dụng cho người ở gốc cây. Ðây là chỉ dẫn.

61.
Có ba cấp bực. Cấp 1 không được ở gần một gốc cây, mỏm đá hay nhà. Phải dùng một tấm y làm lều mà ở giữa trời. Cấp 2 được ở gần một gốc cây, tảng đá, nhà, mà không ở dưới đó. Cấp 3 thì có thể ở dưới một hốc đá không có ống máng (đục để ngăn mưa lọt), dưới lều bằng cành cây, dưới một tấm lều vải được hồ cho cứng và dưới một cái lều của người canh ruộng bỏ không.

Lúc họ đi vào dưới một mái nhà hay một gốc cây để ở thì khổ hạnh bị phá. Những vị tụng Tăng chi bộ bảo, khổ hạnh của họ bị phá khi một trong ba hạng cố ý ở dưới một gốc cây… vào lúc mặt trời đã mọc.

62.
Có những lợi lạc như sau: Khỏi có những chướng ngại do chỗ trú gây ra, trừ được hôn trầm biếng nhác. Hạnh của vị ấy xứng đáng lời ca tụng “như thú rừng, tỳ kheo ấy sống không ràng buộc và không nhà” (Tương ưng i, 199). Vị ấy thong dong, muốn đi đâu cũng được, sống phù hợp với nguyên tắc ít muốn, biết đủ …

63.
Nhờ ở nơi khoảng trống
Tỳ kheo thêm tinh cần
Dễ kiếm, tâm bén nhạy
Như con nai giữa rừng

Hết hôn trầm biếng nhác
Dưới vòm trời đầy sao
Trời trăng làm ánh sáng
Thiền định đem hân hoan.

Hương vị độc cư lạc
Vị ấy sẽ tìm được
Khi sống giữa đất trời
Người trí hãy yêu thích.

64.
xi) Hạnh ở nghĩa địa được thọ trì với 1 lời nguyện: “Tôi từ chối chỗ trú không phải nghĩa địa” hoặc “Tôi tập hạnh sống tại nghĩa địa”. Người ấy không được ở một nơi chỉ có cái tên là “đất nghĩa trang” vì chỗ nào không có 1 tử thi được đốt thì không phải nghĩa địa. Nhưng khi có 1 tử thi đã được đốt ở đấy, thì chỗ ấy trở thành nghĩa địa, dù có bị bỏ phế đã hơn 10 năm.

65.
Một người sống ở nghĩa địa không được sai làm sẵn những đường đi, lều trại … đặt sẵn bàn ghế giường, nước rửa, nước uống và giảng pháp, vì khổ hạnh là việc trọng đại hơn vị ấy phải tinh cần và phải báo cho các bậc trưởng lão hoặc chính quyền địa phương biết để ngăn ngừa sự lôi thôi. Khi đi kinh hành, nên vừa đi vừa nhìn giàn hỏa (để thiêu tử thi) với nửa con mắt. Trên đường đi đến nghĩa địa, vị ấy phải tránh những chính lộ và theo con đường mòn. Cần nhận kỹ những sự vật ở đấy vào lúc ban ngày để về đêm, khỏi tưởng ra những hình thù ghê sợ. Ngay cả lúc phi nhân (ma) có đi vất vưởng vừa đi vừa rú lên, vị ấy cũng không được ném vật gì vào những hồn ma ấy. Không được bỏ công việc đi đến nghĩa địa dù chỉ một ngày. Những vị tụng đọc Tăng chi bộ kinh bảo, sau khi trải qua canh giữa tại nghĩa địa, hành giả được phép rời khỏi vào canh cuối. Không được ăn những thứ như bột mè, bánh bao, cá, thịt, sữa, dầu … những thứ ma ưa thích. Không được đi vào những gia đình. Ðây là chỉ dẫn.

66.
Khổ hạnh này cũng có 3 bực. Cấp 1 phải sống tại những nơi luôn luôn có việc thiêu đốt, tử thi và tang lễ. Cấp 2 được phép sống ở nơi chỉ có 1 trong 3 điều ấy. Cấp 3 có thể sống tại 1 nơi chỉ có những đặc tính của 1 nghĩa địa như đã nói trên.

Khi 1 trong 3 hạng người ấy có trú xứ tại 1 nơi không phải nghĩa địa thì khổ hạnh bị phá. Những vị tụng đọc Tăng chi bộ thì bảo khổ hạnh bị phá vào ngày nào mà 1 trong 3 hạng ấy không đi đến nghĩa trang.

67.
Những lợi ích như sau: Hành giả được sự tưởng niệm về cái chết, sống tinh tấn, tưởng bất tịnh luôn hiện tiền, tham dục biến mất vì luôn luôn thấy được thực chất của thân thể. Vị ấy có tỉnh giác cao độ, từ bỏ 3 kiêu mạn về sự sống, tuổi trẻ và vô bịnh, chinh phục sợ hãi khiếp đảm, phi nhơn tôn trọng vị ấy. Vị ấy sống đúng theo hạnh tri túc thiểu dục…

68.
Hành giả ở nghĩa địa
Ngủ cũng thường tinh tấn
Tử tưởng luôn hiện tiền
Tham dục nào bén mảng

Ý thức đời phù du
Tận trừ mọi kiêu mạn
Với người hướng Niết-bàn
Hạnh này nhiều lợi lạc.

69.
xii) Khổ hạnh nghỉ đâu cũng được thọ trì bằng cách phát nguyện: “Tôi từ bỏ lòng tham đắm sàng tòa” hoặc “Tôi giữ hạnh nghỉ đâu cũng được”. Người lập hạnh này phải bằng lòng với bất cứ chỗ nghỉ nào mình có được, khi người phân phối bảo: “Chỗ này thuộc về ông” vị ấy không được bảo người nào dời chỗ.

70.
Có 3 cấp bực. Cấp 1 không được hỏi thăm về trú xứ dành cho mình, như: “Có xa không?” hoặc “Có quá gần không?” hoặc “Chỗ ấy nóng không?” hoặc “Chỗ ấy lạnh không?”. Cấp 2 được phép hỏi nhưng không được đi quan sát trước. Cấp 3 thì được đi quan sát trước và nếu không thích, có thể chọn một chỗ ở khác.

Khi lòng tham đối với trú xứ khởi lên trong tâm những vị này, thì khổ hạnh bị hỏng. Ðây là phá giới ở khổ hạnh này.

71.
Có những lợi lạc như sau: vị ấy làm đúng lời khuyên “Vị tỳ kheo nên hỷ túc với những gì mình có được” (Luật iv, 259), có tâm nghĩ tưởng đến những người đồng phạm hạnh, từ bỏ so đo cao thấp, bỏ tâm thuận nghịch, đóng cái cửa tham muốn, sống theo hạnh thiểu dục tri túc…

72.
Người ở đâu cũng được
Hài lòng cái mình có
Ngủ nghỉ trong an lạc
Dù trên đệm cỏ khô.

Không ham cầu chỗ tốt
Không ghét chỗ thấp xấu
Giúp đỡ bạn đồng tu
Tỳ kheo còn ngơ ngáo.

Bởi vậy người có trí
Hỷ túc với sàng tòa
Ðây hạnh đáng yêu mến
Ðược Thế Tôn khen ngợi.

73.
xiii) Khổ hạnh ngồi được thọ trì bằng cách phát nguyện: “Tôi sẽ không nằm” hoặc “Tôi giữ hạnh ngồi không nằm”. Hành giả có thể đứng hoặc đi bất cứ giờ nào trong đêm vì chỉ cấm nằm. Ðây là chỉ dẫn.

74.
Có 3 cấp bực. Cấp 1 không được dùng 1 chỗ tựa lưng hay dây vải băng ngang người hoặc nịt lưng (phòng khi ngủ bị té). Cấp 2 được dùng bất cứ thứ nào trong 3 loại ấy. Cấp 3 được dùng 1 chỗ tựa, 1 băng vải, 1 nịt lưng, 1 gối dựa, 1 “cái 5 chân” và 1 “cái 7 chân”. Cái 5 chân là dụng cụ gồm 4 chân và chỗ dựa lưng (ghế dựa). Cái 7 chân là dụng cụ gồm 4 chân, chỗ dựa lưng và 2 bên có chỗ tỳ cánh tay (ghế bành). Tương truyền cái ghế như vậy đã được chế cho trưởng lão Pìthàbhaya (Abhaya ngồi ghế). Vị này chứng chứng quả Bất hoàn trước khi viên tịch. Khi 1 trong 3 hạng người ấy nằm thì khổ hạnh của họ bị phá.

75.
Những lợi ích như sau: xiềng xích trói buộc tâm, như “Vị ấy say mê lạc thú nằm dài, nghỉ ngơi, biếng nhác” bị cắt đứt, dễ chú tâm vào đề mục thiền định, dễ tinh cần tinh tấn, phát triển hạnh tu.

76.
Ẩn sĩ ngồi kiết già
Bàn chân trên hai vế
Lưng thẳng ngồi bất động
Làm kinh động ác ma.

Không ưa thú nằm dài
Sa đọa trong biếng lười
Tỳ kheo ngồi an nghỉ
Sáng chói khổ hạnh lâm

Hỷ lạc siêu thế gian
Tuôn phát từ hạnh ấy
Người có trí do vậy
Yêu mến khổ hạnh ngồi.

Trên đây là luận về thọ giới, chỉ dẫn, cấp bực, sự vi phạm và những lợi lạc trong khổ hạnh ngồi.

77.
Bây giờ, hãy luận về những điểm kế tiếp (xem Ðoạn 3): 4, 5, 6, 7.

78.
(4)Về phương diện Ba tánh: Tất cả khổ hạnh của hữu học, phàm phu và A-la-hán đều có thể thiện hay bất định, chứ không khổ hạnh nào bất thiện (bất định là trường hợp A-la-hán).

Nhưng nếu có người bảo cũng có khổ hạnh bất thiện vì kinh nói: “Người có ác dục, làm mồi cho dục, trở thành một vị sống ở rừng” (Tăng chi iii, 219)… thì nên trả lời: “Người nào có trú xứ trong rừng thì gọi là người ở rừng, nhưng vị ấy có thể là người có ác dục hay thiểu dục. Nhưng như đã nói (Ðoạn 11), những khổ hạnh ấy sở dĩ được gọi là đầu đà (dhuta) vì hành giả đã rủ sạch (dhuta) cấu uế bằng cách thọ trì một trong những khổ hạnh ấy. Không ai gọi là khổ hạnh vì người bất thiện có thể hành trì, mà đã bất thiện thì không thể rủ sạch được thứ gì để có thể gọi hạnh của kẻ đó làm là khổ hạnh. Và cái gì bất thiện thì không thể vừa rũ sạch lòng tham (y phục)… vừa trở thành lối thực hành của đạo. Do đó, có thể bảo, không khổ hạnh nào là bất thiện.

79.
Những người cho rằng khổ hạnh là ở ngoài ba tánh (không thuộc thiện hay bất thiện hay bất định), thì không có khổ hạnh kể về ý nghĩa.

(Chú thích: ám chỉ những vị ở Abhayagiri tại Amuràdhapura. Họ cho rằng khổ hạnh là một khái niệm chỉ có danh tướng (nàma- pannatti), mà như vậy thì cũng không thể có nghĩa rũ sạch cấu uế, hay khả tính về sự thọ trì, vì theo ý nghĩa tối hậu, chúng phi hữu, vì khái niệm là phi hữu – Hết phần chú thích).

Do rũ sạch cái gì, mà một cái vốn phi hữu có thể được gọi là khổ hạnh? Vậy mà vẫn có câu “Bắt đầu thọ trì những khổ hạnh” (Luật iii 15) do đó thành mâu thuẫn. Cho nên thuyết này (cho rằng khổ hạnh không ở trong ba tánh) không thể chấp nhận.

80.
(5) Kế tiếp, có sự phân biệt giữa ý nghĩa “người tu khổ hạnh”, “người nói về khổ hạnh”, “các pháp khổ hạnh”, “các khổ hạnh” và hạng người nào cần thực hành khổ hạnh.

81.
Người tu khổ hạnh là người đã rũ sạch cấu uế. Người giảng nói về khổ hạnh: có người tu khổ hạnh mà không giảng về khổ hạnh, có người giảng về khổ hạnh mà không phải là người tu khổ hạnh, có người không giảng cũng không tu, có người vừa giảng vừa tu.

82.
Một người đã rũ sạch những cấu uế nhờ một khổ hạnh, nhưng không khuyên dạy kẻ khác thực hành khổ hạnh, là hạng thứ nhất, như trưởng lão Bakkula (Bạc-câu-la).

Người bản thân chưa tẩy sạch những cấu uế, mà chỉ khuyên dạy kẻ khác tu khổ hạnh, là như trưởng lão Upananda.

Người không tu khổ hạnh cũng không dạy khổ hạnh, như đại đức Làludàyin.

Người vừa tu khổ hạnh vừa dạy tu khổ-hạnh, như bậc tướng quân Chánh pháp là tôn giả Xá-lợi-phất.

83.
Những pháp khổ hạnh: là 5 pháp câu hữu với khỗ hạnh: ít muốn, biết đủ, viễn ly, độc cư, và cái có được nhờ các thiện pháp ấy. (Tăng chi iii, 219)

84.
Ít muốn và biết đủ là vô tham. Ðộc cư và viễn ly là: viễn ly thuộc về vô tham, độc cư thuộc vô si. “Cái có được nhờ các thiện pháp ấy” là trí, cái trí nhờ đó một người thực hành khổ hạnh, và kiên trì trong các đức tính khổ hạnh (idamatthità: imehi kusaladhammehi atthi: idam-atthi). Ở đây, nhờ vô tham mà một người rũ bỏ tâm tham đối với những vật bị cấm chỉ. Nhờ vô-si, vị ấy rũ bỏ cái mặt nạ lừa dối khoác ở ngoài những vật ấy để che lấp sự nguy hiểm của chúng. Và nhờ vô tham, vị ấy rũ bỏ đam mê khoái lạc giác quan khi sử dụng những vật dụng hợp pháp. Nhờ vô si, vị ấy rũ bỏ sự say mê khổ hạnh khi thực hành khổ hạnh.

85.
Những khổ hạnh là 13 hạnh đầu đà nói trên.

86.
Hạng người nào nên tu khổ hạnh: Khổ hạnh thích hợp cho những người nhiều tham và si. Vì sao? Vì việc tu khổ hạnh vừa là một tiến trình khó khăn, vừa là một sự trú trong viễn ly, do khó tiến, mà tham giảm thiểu; do tinh cần trong viễn ly, si giảm thiểu. Hoặc hạnh ở rừng và ở gốc cây thích hợp cho người nhiều sân, vì sân giảm thiểu nơi một người ở những nơi không vướng vào xung đột.

87.
(6) và (7). Theo nhóm và riêng biệt: (6) Theo nhóm, thì những khổ hạnh chỉ gồm có tám: ba chính và năm lẻ. Ba chính, là khất từng nhà, nhất tọa thực, và ở ngoài trời. Hạnh khất thực từng nhà bao gồm luôn cả hạnh ăn đồ khất thực; ăn bằng bát, và không ăn tàn thực bao gồm trong hạnh nhất tọa thực. Và một người đã ở ngoài trời thì cần gì phải thọ giới ở gốc cây, hay giới nghỉ chỗ nào cũng được? Bởi vậy, chỉ có ba khổ hạnh chính này, cùng với năm khổ hạnh riêng biệt là ở rừng, mặc y phấn tảo, hạnh ba y, hạnh ngồi và hạnh ở nghĩa địa làm thành tám khổ hạnh mà thôi.

88.
Lại nữa, chúng gồm bốn: hai liên-hệ y phục, năm liên hệ thực phẩm, năm liên hệ trú xứ, và 1 liên hệ đến sự tinh cần (khổ hạnh ngồi).

Lại nữa, các khổ hạnh rút lại chỉ gồm hai: 12 hạnh thuộc về tứ sự, và một về tinh cần. Và gồm hai, xét theo cái gì nên tu tập cái gì không nên. Khi một người tu khổ hạnh thấy đề tài quán tưởng của mình được tiến bộ, thì nên tu khổ hạnh, nhưng nếu không tiến mà còn thối, thì không nên tu. Khi vị ấy thấy dù khổ hạnh hay không, thiền- quán vẫn tiến, thì nên tu khổ hạnh vì lòng thương tưởng đến hậu lai. Và khi vị ấy thấy, dù tu khổ hạnh hay không, đề tài thiền quán vẫn không tiến bộ, thì vị ấy vẫn nên tu khổ hạnh, để tạo một thói quen tốt cho tương lai. Do đó mà nói tất cả khổ hạnh chỉ gồm hai thứ.

89.
Và tất cả khổ hạnh đều thuộc một loại, là tư tâm sở. Vì chỉ có một khổ hạnh, đó là cái ý chí, chí nguyện thọ-trì. Sớ giải nói: “Chính tư tâm-sở gọi là khổ hạnh”.

90.
(7) Riêng biệt, thì có 13 khổ hạnh cho tỷ kheo, 8 cho tỷ kheo ni, 12 cho sadi, 7 cho sa di ni và tịnh nữ, 2 cho nam, nữ cư sĩ. Như vậy tất cả có 42.

91.
Nếu có một nghĩa địa ở khoảng trống phù hợp với khổ hạnh ở rừng, thì một tỷ kheo có thể đồng lúc thực hiện cả 13 khổ hạnh. Nhưng 2 khổ hạnh ở rừng và không ăn tàn thực thì Luật cấm các tỷ kheo ni thực hành. Và cũng khó cho những vị này thực hành 3 khổ hạnh ở giữa trời, ở gốc cây và ở nghĩa địa, vì tỷ kheo ni không được ở 1 mình không có bạn ở chung, mà thực khó tìm được 1 người đồng một khuynh hướng thích ở 1 nơi như vậy và cho dù có 1 người, thì hành giả cũng không thoát khỏi tình-trạng phải sống chung với 1 người khác. Bởi thế, việc tu khổ hạnh của họ không đi đến đâu. Do vậy, khổ hạnh dành cho tỷ kheo ni rút lại còn 8, vì một số khổ hạnh không thể áp dụng cho nữ.

92.
Trừ khổ hạnh ba y, 12 khổ hạnh kia dành cho sa di, 7 khổ hạnh (8 khổ hạnh tỷ kheo ni trừ khổ hạnh ba y) dành cho sa di ni và tịnh nữ. Hai khổ hạnh nhất tọa thực và ăn bằng bát là đặc biệt thích hợp cho nam nữ cư sĩ. Với cách ấy, có hai loại khổ hạnh.

93.
Ðến đây, chấm dứt luận về những khổ hạnh được thọ trì để viên mãn các đức đặc biệt (ít muốn, biết đủ, v.v…) nhờ đó phát sinh thanh tịnh giới, như được tả trong thanh tịnh đạo, đạo lộ được chỉ rõ trong bài kệ dưới ba đề mục Giới, Ðịnh và Tuệ:

Người trú giới có trí
Tu tập tâm và tuệ
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỷ kheo ấy thoát triền. — (Tương ưng, i, 13)

Chương này được soạn để làm hoan hỷ những người lành.

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận