Kể Chuyện về Cố Đại lão HT Tuệ Sỹ (theo lời kể của HT Thái Hòa)
* Bài viết này do Hoa Nghiêm & Hoa Trân thuật lại nguyên văn qua lời kể của HT Thái Hòa, trong bài pháp “Chuyển Vận Pháp Luân Mười Hai Hành Tướng”, tại Đạo tràng Liên Hoa, vùng San Antonio, Texas, Hoa Kỳ, ngày 12.12.2023.
… Tôi là người có phúc duyên được gần gũi quý Ngài có cái sống, cái chết thong dong. Cuộc đời tôi đuợc gần Ôn Trí Quang, Ôn Quảng Độ, Ôn Tuệ Sỹ… những bậc Thầy đến đi trong cuộc đời này bằng nguyện sanh, không phải bị sanh. Mình có khen tưởng tán thán quý Ngài cũng không bị động. Mình có chê bai thì quý Ngài cũng không hề gì. Nhưng là phàm phu, nếu mình tán thán quý Ngài thì phước đức của mình tăng trưởng. Nếu mình đem tâm chê bai thì thiệt thòi cho mình, vì làm như vậy nghĩa là cánh cửa đố kỵ, nhỏ hẹp đã mở ra trong lòng mình rồi, thì phước báu làm sao vào được nữa.
Bốn năm trước Hòa Thượng Trí Quang viên tịch để lại xá lợi thủ. Hòa Thượng Trí Quang từ năm 1966 đến giờ, chuyên tu xá lánh thế sự, mỗi ngày chỉ có niệm Phật, tọa Thiền, dịch Kinh, chú giải… Tôi vào thăm Ngài, Ngài kể mỗi buổi sáng, Ngài niệm Phật rõ ràng từng chữ “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm rõ tiếng, chậm chạp, niệm 800 câu niệm Phật, rồi sau đó mới đọc Kinh, dịch Kinh… Bồ Đề Đạt Ma chỉ có 9 năm im lặng. Còn Ngài Trí Quang từ năm 1966 đến năm 2019, không nói một lời, yên lặng tĩnh tu… Tôi nhiều lần xin chụp ảnh với Ngài, Ngài đẹp lắm, nhìn quý phái lắm, nhưng Ngài bảo thôi, Ngài cũng không muốn đưa hình ảnh lên với đời làm gì. Vậy mà Ngài để lại cho đời “một cái đầu”. Ngài tịch, sau khi thiêu xong, để lại toàn vùng xương sọ trắng toát, không vỡ… Đó là xá lợi thủ.
Vừa rồi đây Hòa Thượng Tuệ Sỹ viên tịch. Cuộc đời Ngài Tuệ Sỹ phải chịu cảnh vô tù ra tội, khó khăn, không có chùa, cuộc sống nay đây mai đó.
Ngài xin ở chùa này ít ngày, ở chùa kia ít ngày. Trước đây, ngài ở Già Lam, dạy anh em chúng tôi. Rồi sau đó thì ngài thực hành hạnh đầu đà. Đi bộ từ Sài Gòn, thực tập hạnh đầu đà, ra Thôn Vạn Giã. Tù Vạn Giã vượt qua núi rừng Đà Lạt. Ngủ giữa rừng với ba y, bình bát, ngài quẩy trên vai mà đi.
Lội suối băng ngàn, đi qua những cánh rừng đầy dẫy những nguy hiểm của Lâm Đồng, Đà Lạt. Ngủ giữa rừng, ngài gặp nhân viên kiểm lâm, bị họ tra hỏi và đuổi đi.
Kiểm lâm: “Sao ông già lại ngủ giữa rừng đây?”
Ôn Tuệ Sỹ: “Thì già không có nơi nương tựa, chỉ xin ngủ ở đây một đêm thôi, sáng ngày mai già sẽ đi xin ăn.”
Kiểm lâm: “Ông già tới đầu trụ sở kiểm lâm mà xin ngủ lại, ở giữa rừng đây, chết bây chừ.”
Ngài yên lặng và dời đi, tới trụ sở kiểm lâm. Gặp nhân viên kiểm lâm tại trụ sở, ngài hỏi:
“Mấy anh cho ông già ở lại một đêm?”
Kiểm lâm: “Ông già có giấy tờ gì không?”
Ôn Tuệ Sỹ: “Không có, già tứ cố vô thân, làm gì mà có giấy tờ.”
Kiểm lâm: “Đây, ông già hãy cầm lấy ổ bánh mỳ rồi ra ngoài rừng mà ngủ, ngủ trong đây lỡ chết, tụi tôi lại mang họa.”
Cuối cùng, ôn Tuệ Sỹ nói lời cám ơn, rồi đi thôi. Ngài đi ra giữa rừng, treo cái võng lên giữa băng giá lạnh lẽo như vậy. Quý vị biết Đà Lạt rồi, ở rừng nữa, đêm khuya lạnh dữ lắm. Ngài kéo cái y làm cái chăn đắp, nằm trên võng.
Mới thiu thiu chợp mắt một chút, ôn Tuệ Sỹ bỗng dưng nghe dưới lưng của mình, có một con chi, hắn cà cà bộ lông dưới lưng của Ôn. Ôn lấy hai tay nằm yên bất động luôn, ráng ngủ đến khi trời gần sáng, rồi thì con vật ấy mới chịu bỏ đi. Vì con vật nó cũng lạnh. Nó cảm nhận được hơi ấm, nên đến nằm bên, sáng rồi nó cũng đi.

Ảnh, Tâm Nhãn.
Sáng dậy ngài lại tiếp tục xuống núi, cứ tiếp tục đi vậy thôi. Ngày đi đêm nghỉ, hướng về Nha Trang, rồi đi bộ ra thôn Vạn Giã. Mỗi chổ Ngài ở một tuần, 10 ngày. Ngài dừng chân ở chỗ của HT Quảng Tu khoảng 10 ngày, rồi lại tiếp tục đi bộ ngược lại. Ngày đi, tối nghỉ, đói ngài xin cơm ăn và khát, xin nước để uống.
Thấy chỗ mô bán café, thì vào xin chút café uống. Thấy ai pha trà, thì vào xin miếng trà uống. Mấy người họ cũng thương, bảo “vô đây, vô đây, cho ông già uống một miếng”. Bữa đó, Ôn đi ngang qua chùa Phước Huệ (Lâm Đồng) của ôn Thái Thuận. Khi đó là 12 giờ đêm rồi, Ôn thấy mệt, trong người không khỏe, nên Ôn Tuệ Sỹ đi vào trong cổng tam quan Chùa ôn Thái Thuận xin nghỉ. Thấy 2 con sư tử đá, ôn Tuệ Sỹ vỗ lên đầu con sư tử và nói “Này, sư tử này, làm sư tử nhưng bị quả báo súc sanh nghe. Cho nên cho bần tăng ngủ một đêm, nhờ phước đức này mà sớm xả bỏ thân súc sinh, sanh về được cõi người mà tu tập. Ôn vỗ vỗ lên đầu sư tử ba cái, như ban phước lành cho sư tử đá, rồi ngài lấy y ra làm chăn để đắp.
Khoảng 3 giờ sáng Ôn thấy trong Chánh điện của chùa Phước Huệ điện mở sáng rồi. Các chùa 3.30am thỉnh chuông, nên Ôn dậy khăn gói đi. Ôn e từ trong nhìn ra, thấy ngoài cổng Tam Quan có thấp thoáng bóng người, sợ Ôn Thái Thuận ra, phát hiện ra Ôn rồi mời vô, thì chướng, nên Ôn đi.
Đi như thế cho đến khi tới gần La Ngà. Lâm Đồng – La Ngà cách nhau khoảng 130 cây số. Chỉ gần đến La Ngà thôi, lúc đó Ôn mệt rồi. Ôn mới mắc võng vào 2 cái cây của một quán nọ, đó là nhà hàng. Sáng sớm dậy, chủ quán ra mở cửa, thấy ông già mắc võng đó, họ liền đuổi ngài và nói: “Nhà hàng chưa mở cửa, ông già tới chi mà sớm vậy, ông đi chỗ khác, xui”. Ôn Tuệ Sỹ đứng dậy, mở võng xếp xếp. Người chủ nhà hàng trong nhà cầm ra 100 ngàn, rồi đưa cho ông “Cho ông già 100 ngàn rồi đi đi, không thôi xui, nhà hàng xui”.
Ôn Tuệ Sỹ cười nói “Không, ông già này không phải đi xin ăn, không phải đi xin tiền, ông già này chỉ đi xin đạo đức, lương tâm con người. Tôi đâu có cần tiền đâu mà xin.” Rồi Ngài cười mà đi.
Rứa rồi, Ông lại tiếp tục đi, đi lang thang. Tới nơi cái xe bán bánh mỳ, ông nói: “Có thương ông già này không, cho ổ bánh mỳ ăn, sáng giờ già chưa có gì hết”. Người bán bánh mỳ thấy ông già tội, lấy cái bánh mì ra, bỏ vào mấy miếng xíu (mại) và hỏi Ôn “ông có ăn xíu không?” Ôn trả lời “không, già không ăn xíu được, cho già này chút xì dầu thôi, già này không ăn xíu”. Người bán bánh mỳ liền cho ông miếng bánh mỳ với chút xì dầu, rồi cho ông miếng nước uống.
Ôn đi tiếp đến La Ngà. Ngang qua tiệm cà phê, thấy mấy cậu thanh niên đang ngồi uống cà phê, ông hỏi “ cho già này xin miếng cà phê uống cho vui”. Mấy cậu thanh niên thấy ông già cũng có từ tâm, thương, nên mời “ông cụ vào đây, cụ ngồi đây” Mời café đàng hoàng. Rồi mấy người đó bắt chuyện với nhau. Những câu chuyện về tri thức, nói chuyện về học thuyết này, học thuyết khác, nói chuyện về triết học, thi ca…
Ôn Tuệ Sỹ vẫn ngồi yên lặng, không nói gì hết, xem như người không biết gì hết. Cuối cùng, có cậu đó nói “Tôi trước đây có học đại học, học ở Văn khoa Sài Gòn, tôi có học Đại học Vạn Hạnh. Mà trời ơi, thời đó có ông Tuệ Sỹ nhỏ nhỏ người, mà dạy hay dễ sợ. Nhỏ nhỏ người thôi mà dạy hay dễ sợ luôn. Mới có hai mấy tuổi mà dạy hay không ai địch nổi. Thời đó, đại học Vạn Hạnh có 3 ông nổi cộm nhất, đó là Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ và Bùi Giáng. Còn Thầy Lê Mạnh Thát là mới về dạy từ năm 74 đây thôi”. Họ ngồi nói về ôn Tuệ Sỹ dạy Tô Đông Pha Phương Trời Viễn Mộng hay giữ lắm, Triết học Tánh Không hay giữ lắm. Mấy Ông khen với nhau mà Ôn Tuệ Sỹ ngồi đó. Ôn không nói chi cả, Ôn uống cà phê xong, rồi Ôn chào Ôn đi thôi.
Ôn đi về Sài Gòn rồi đi lên Châu Đốc. Ở trên núi Châu Đốc, Ngài vào trong hang ngồi thiền 7 ngày. Ngài ngồi suốt 7 ngày, rồi xuống núi. Cả Châu Đốc đó không ai biết Tuệ Sỹ là ai hết. Sau 7 ngày, ông xuống xin ăn và lại đi về Sài Gòn.
Rồi lại đi lên lại trên núi, dưới đèo Bảo Lộc. Phật tử thấy Ôn thương quá, nên âm thầm làm cho ôn cái thất, rồi sau đó thưa với ôn: “Chúng con có làm cái thất cho thầy rồi, cho nên Thầy đừng đi nữa. Xin Thầy hãy ở lại đây để tịnh dưỡng, có chi thầy dạy dỗ cho chúng con”. Tự nhiên Ôn cảm động trước những tình tình cảm đó, nên ôn Tuệ Sỹ đã dừng chân tại am thất dưới chân đèo Bảo Lộc.
Thì khi mà tôi nghe Thầy dừng chân ở Bảo Lộc, thì từ Huế tôi bay vào liền và lên hầu Thầy. Tôi hỏi Thầy là Thầy đi như thế nào, rồi cảm nhận ra sao, rồi Ôn kể lại những gì mà tôi kể lại cho quý vị nghe đó. Kể rất nhiều chuyện hấp dẫn nữa, mà tôi chỉ kể một ít thôi.
Quý vị thấy chưa, đó, cho nên Ôn hành hạnh đầu đà, một bậc Thầy thông tuệ, viết dịch thành thạo đến mười mấy loại ngôn ngữ, cổ ngữ. Tu hành khi nào cũng gương mẫu. Tụng Kinh khi nào cũng lên trước hết. Ngồi thiền khi nào cũng lên trước. Ăn cơm xuống trước. Dạy, vào lớp trước. Còn mấy người tui, đôi khi tăng sinh lẻo đẻo, lẻo đẻo vào sau.
Ôn thông minh cực kỳ. Có một cuốn tự điển bằng tiếng Campuchia ở nơi phòng của Thầy Tín Đạo, tức là tăng sinh, anh em chúng tôi đó. Thầy Tín Đạo là ở nơi Vĩnh Bình, cái vùng Trà Vinh, người Campuchia nhiều, cho nên Thầy có cuốn tự điển dày như thế này. Một hôm, Ôn Tuệ Sỹ lên ngồi chơi với tăng sinh. Ôn thấy cuốn tự điển tiếng Campuchia. Ông nói: “mấy Thầy cho tôi mượn nghe”. Thầy Tín Đạo vui lắm nói: “Thầy đem xuống đọc đi”. Ôn mượn 3 ngày, Ôn đem lên, Ôn nói: “mấy Thầy hỏi chử gì trong này, tôi nói cho nghe”. Cuốn tự điển dày như thế này – ba bữa thôi.
Mà tôi nói đây là nói sự thật – không tâng bốc, không cường điệu, không tô trét. Bởi vì Ôn Tuệ Sỹ không cần ai tâng bốc, không cần ai tô trét, không cần ai đánh bóng. Bản thân của Ôn xưa nay là vậy. Khả năng tự giác và tự lực rất cao, khả năng tự học rất cao. Cái gì cũng tự học và cái gì cũng vượt trội trong cái tự học đó đối với người có học.
Quý vị có thấy không, đánh đàn, thổi sáo, đó là sở đoản của người tu chứ chi nữa, phải không? Rứa mà Ôn đánh đàn guitar rất giỏi, đàn dương cầm rất giỏi, đàn piano rất giỏi, đàn tranh cũng giỏi, thổi sáo cũng hay. Mà đó là nghiệp dư chơi thôi. Ở Già Lam, có vị linh mục đó đánh đàn piano rất giỏi, tới liên hệ với Ôn Tuệ Sỹ và xin Ôn học tiếng Phạn, tiếng Sanskrit. Hai vị mới nói với nhau: “Linh Mục dạy cho tôi đàn piano, tôi dạy cho Linh Mục tiếng Phạn”.
Nhưng mà vị Linh Mục dạy đàn piano cho Ôn Tuệ Sỹ mới dạy một tuần, Ôn đánh đàn piano hay hơn cả ông Linh Mục nữa. Ông Linh Mục nói “Thầy đánh hay quá, tôi hết bài dạy rồi.” Ông Linh Mục ổng dễ thương lắm, ông dạy hết lòng. Dạy một tuần, Ôn Tuệ Sỹ đánh hay hơn. Linh Mục nói Thầy đàn piano hay hơn tôi nữa, điêu luyện hơn tôi nữa, tôi hết bài dạy rồi.
Trong lúc đó là Ôn Tuệ Sỹ dạy tiếng Phạn cho ông Linh Mục, mới hai bài thôi mà ông Linh Mục học chưa thuộc. Mà muốn học tiếng Phạn cho được được, là phải được hai mươi mấy bài – viết từ tiếng Devanagari ra mà mới viết các nguyên âm, phụ âm thôi, rồi lắp ghép chữ nguyên âm, phụ âm nó thôi mà ông Linh Mục thụt lui, thụt tới. Mà Ôn Tuệ Sỹ đã đánh đàn piano rành rõi rồi.
Cho nên quý vị thấy một bậc Thầy như vậy, mà rất kham nhẫn và luôn kiểm chứng lại cái sự tu học của mình.
Và những ngày mà Hòa Thượng Tuệ Sỹ sắp đi, tôi có vào hầu thăm. Tôi và Hòa Thượng Minh Thông, hai anh em tới thăm. Nằm nơi bệnh viện thì Ôn Tuệ Sỹ Ôn nói: “tôi còn sống vài tháng nữa thôi, với mấy Thầy, mấy anh em thôi, chứ thân thể nó không còn chi nữa cả”. Và tôi nói: “không còn chi, còn cái đầu chứ Thầy”. Ôn nói: “đúng rồi, cái đầu chưa chi hết. Tôi nói, “thôi, Thầy đi Thầy để lại cái đầu cũng được”. Ôn nói, “ờ, tôi để lại cái đầu”. Tức là bao nhiêu kinh điển của Ôn viết, dịch chú giải, cả cái bộ Thanh Văn Tạng.
Là tôi nói để quý vị Phật tử thấy, quý Thầy, quý Cô thấy. Thanh Văn Tạng đó là Ôn làm theo tiêu chuẩn gọi là Viện Hàn Lâm Quốc Tế. Dịch rồi, chú thích ra phía dưới, cái đoạn này ở kinh nào, tiếng Pali thế nào, tiếng Phạn thế nào, tiếng Tây Tạng thế nào, tiếng Hán thế nào, diễn ra từng đoạn, ghi chú rõ ràng… Cho nên Bộ Thanh Văn Tạng mà do Hoa Thượng Tuệ Sỹ chủ trương. Bộ đó đầy đủ, đủ thẩm quyền để đóng góp cái gia tài kinh điển, Thánh điển của Phật giáo Việt Nam vào cho Phật giáo quốc tế và trí thức nhân loại. Tất cả các cái bộ Đại Tạng Kinh có. Nhưng Bộ Đai Tạng Kinh mà có cái thẩm quyền nhất, trước đó là bộ Đại Chính Tân Tu của các học giả Nhật Bản làm. Cho nên các học giả sau này nghiên cứu kinh điển đều dựa vào cái bản Đại Chính Tân Tu để mà dẫn chứng. Thanh Văn Tạng của Hòa Thượng Tuệ Sỹ dựa trên nền tảng của Đại Chính Tân Tu rồi, mà còn bổ sung thêm nữa. Cho nên có một giá trị rất lớn, về mặt học thuật, về mặt dịch thuật, về mặt vản bản.
Tôi nói một vài điểm như vậy để quý vị hiểu chút chút về Ngài Tuệ Sỹ. Đôi khi thấy người ta ca ngợi Hòa Thượng Tuệ Sỹ mà quý vị không biết người ta ca ngợi ở điểm nào. Tôi nói một vài điểm như vậy thôi. Còn nếu mà chúng ta sống một bên thì đúng là không có gì nữa để nói. Bởi vì những gì mà Thầy Tuệ Sỹ nói thì Thầy làm. Những gì Thầy làm thì Thầy nói. Đúng như chữ Như Lai mà chúng ta đã học. Bởi vì Thầy xem như là con của Như Lai, sứ giả Như Lai. Cho nên nếu mà mình không có chánh kiến về một người mà mình phê phán, thì đó là mình rước họa vào nơi thân của mình – vào lời nói của mình. Đại chúng hiểu không?
Cho nên người thật sự tu hành, người ta rất là tiết kiệm lời nói. Trí Quang thượng nhân nói với tôi: “Ôn Thiện Siêu này, Ôn Thiện Siêu này, Ôn này này là cẩn thận lắm này, chín chắn lắm này. Ôn rất kiệm lời nói”. Là Ôn Trí Quang ca ngợi Ôn Thiện Siêu. “Ôn này này, Thầy Hòa biết Ôn Thiện Siêu này, rất chín chắn, rất cẩn thận, rất kiệm lời nói. Các Ngài tán thán nhau cái công hạnh, thán nhau cái đức hạnh, cái phẩm Hạnh.
Cho nên tôi cũng thấy rằng mình may mắn gặp được các Ngài. Được các Ngài thương và nhắc nhở, khuyến tấn cho mình tu hành. Cho nên đó là cái hạnh phúc, một cái may mắn mà mình không thể kiếm tìm nơi nào khác được.
Cho nên khi mà nói tới quý Ngài, tự nhiên nước mắt nó chảy. Mặc dù vẫn biết rằng, không ai ở mãi giữa đời này được, phải không? Nhưng mà mình vẫn thấy thương quý. Rồi thấy ai mà đả kích bôi nhọ các Ngài, mình thấy như trăm ngàn mũi kim đâm vào tim gan của mình. Mà thiệt sự ra những người nói các Ngài thế này, thế kia toàn là những người không biết gì hết. Người chỉ trích các Ngài thế này, thế kia toàn là những người không biết gì hết. Thật ra họ chỉ cần biết chút thôi, họ đã không nói rồi, cho nên chỉ có những người không biết chi hết thì mới nói như thế…
(Hoa Nghiêm & Hoa Trân ghi lại)
Nguồn: Ngôi Già Lam