GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
PL.2536 – DL.1993
HÒA
THƯỢNG
THÍCH TRÍ THỦ
KỶ YẾU
VĂN PHÒNG TRUNG ƯƠNG
GIÁO HỘI PHÂT GIÁO VIỆT NAM
Ấn hành
MỤC LỤC
HT. Thích Trí Thủ với nghi thức lễ sám Xuống núi gánh nước – lên rừng kiếm củi Mừng tuổi thọ HT. Thích Trí Thủ Thư tịch của HT. Thích Trí Thủ
|
VỚI NGHI THỨC LỄ SÁM
THÍCH MINH TUỆ
Với những giấc mộng quan điểm thông thường cho là có thật. Nhưng thật ra, không hẳn như thế. Theo Duy thức học, đó là biến tướng của thức. Quả thật, chiêm bao là những hình ảnh đã được huân chứa sẵn trong tiềm thức, khi có cơ duyên là ứng hiện. Với khoảng thời gian học đạo và hành Phật sự đã qua, tôi thường gần gũi Hòa thượng khai lập Tu viện Quảng Hương Già Lam. Bởi thế, hình ảnh của Hòa thượng rất đậm nét trong tiềm thức của tôi, kể cả một vài tập quán tôi cũng đã chịu ảnh hưởng của Hòa thượng, chẳng hạn như uống trà, dậy sớm…
Do đó, sau ngày Hòa thượng vắng bóng, từ tiềm thức, tôi thường mơ thấy Hòa thượng trong các buổi lễ trọng thể. Trong khi góp phần lo lắng hoàn chỉnh tập kỷ yếu lễ tang và chuẩn bị lễ tiểu tường của Hòa thượng, vào một canh khuya, tôi đã mơ thấy Hòa thượng chuẩn bị lên chánh điện lễ Sám Hồng Danh. Hình ảnh của Hòa thượng đã gắn liền với Nghi Thức Lễ Sám. Hòa thượng thật đa năng, đa hiệu, đa hạnh… Đặc biệt, suốt cả cuộc đời, từ khi mới xuất gia cho đến ngày viên tịch, dù bận rộn việc đời, việc đạo đến đâu, Hòa thượng vẫn không bao giờ bỏ một buổi lễ Sám vào lúc 4 giờ khuya, trừ khi cảm cúm nặng. Nhưng suốt cuộc đời, Hòa thượng hầu như không có bịnh gì hết. Tiên thiên hay bẩm sinh của Hòa thượng rất tốt. Dù đã 76 tuổi đời, Hòa thượng chỉ mới hỏng có một cái răng, do Hòa thượng cố ý muốn nhổ, chứ với phương pháp chữa răng của nha khoa chưa đáng phải nhổ. Hòa thượng chỉ có cơn bạo bịnh, phải vào bịnh viện 3 ngày, theo y khoa, đó là “bịnh nhồi máu cơ tim” ở cuối cuộc đời mà thôi. Vì thế, Hòa thượng rất tinh cần
với nghi lễ sám buổi khuya. Hòa thượng thức dậy thật sớm, lúc 2 giờ. Dù trời lạnh mùa Đông ở Huế, ở Đà Lạt hay ở Hà Nội…, sau khi.thức dậy, Hòa thượng vẫn vận động cơ thể rồi đi tắm nước lạnh. Xong xuôi, Hòa thượng mới uống nước trà rồi lên chánh điện lễ Sám Hồng Danh, với 108 lạy, khoảng trên một giờ. Sau đó, Hòa thượng raThiền thất tọa thiền niệm Phật cũng trên một giờ. Đúng lúc 6 giờ 30 hoặc 7 giờ, Hòa thượng mới ra khỏi thiền thất, đi lao tác, ăn sáng và đi làm Phật sự. Đi bất cứ đâu, Phan Thiết, Nha Trang, Đà Lạt, Huế, Hà Nội, Mông Cổ, Ấn Độ…, Hòa thượng vẫn kiên trì với công hạnh lễ Sám, không vì lý do nào mà chểnh mảng. Khi sửa soạn hành lý đi xa, Hòa thượng luôn luôn nhắc thị giả đừng quên mang theo một bó hương trầm 60 cây và một gói trầm thật tốt để chuẩn bị cho các buổi Lễ Sám vào buổi khuya hằng ngày.
Khoa Lễ Sám được biên soạn từ hồi Hòa thượng còn làm Giám Đốc Phật Học Đường, chùa Báo Quốc Huế, vào đầu thập kỷ 1950. Cứ như thế tăng tiến, sửa đổi, thêm bớt để nghi thức hợp lý, phù hợp với cá nhân, với tập thể. Mãi đến năm 1980 nghi thức Lễ Sám đã thật hoàn chỉnh. Mỗi lạy đều có một bài kệ xướng, rồi lễ hiệu mà tập thể đồng hòa và khi cơ thể mọp sát đất lại có một bài kệ mật niệm trong khoảng 20 giây. Tuần tự như thế, từ lễ hiệu thứ nhất đến lễ hiệu thứ 108. Người chưa bao giờ tham dự khóa lễ tự thấy lo sợ bất kham, nhưng khi đã nhập cuộc, tham dự lại tự thấy rất thoải mái, chằng có gì mệt nhọc, vì cách lễ lạy rất thong thả. Nói nôm na, theo cơ thể học, đây là một cách tập thể dục nhẹ nhàng. Suốt cuộc đời, Hòa thượng không bịnh, chúng ta có thể bạo dạn kết luận là do cung cách dậy sớm, tắm nước lạnh giữ điều độ và đặc biệt là Hòa thượng đã gắn liền cuộc sống với nghi thức Lễ Sám này. Phân tích tinh tường về khoa Lễ Sám của Hòa thượng, thứ tự được xếp như sau:
1. Hòa thượng niệm Hương.
2. Hòa thượng nhiễu Phật, cắm hương vào bát nhang. Ba hồi bảng, câu chuông với ba hồi mõ.
3. Nghi thức xướng lễ:
a. Mười hiệu đầu. Kệ xướng lễ tổng quát về Tam Bảo, ba đời, mười phương; bốn bất hoạt tín và sám hối. Hòa thượng xướng kệ hiệu, đại chúng đồng hòa đọc danh hiệu và tất cả cùng lạy.
b. Kệ hiệu thứ 11: phát tâm đại thừa, lập nguyện Bồ đề, cầu thành Phật vị cao tột. Từ hiệu này đến hiệu thứ 108, cả Hòa thượng và đại chúng luân phiên xướng kệ, đồng hòa danh hiệu Phật hoặc Bồ Tát và cùng lạy.
c. Từ kệ hiệu thứ 12 đến kệ hiệu thứ 36: Danh hiệu chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai.
d. 48 đại nguyện của Phật A Di Đà.
e. Từ kệ hiệu thứ 85 đến kệ hiệu thứ 89: Xướng Lễ Pháp Bảo.
g. Từ kệ hiệu thứ 90 đến kệ hiệu thứ 103: Danh hiệu các Bồ Tát và Hộ Pháp Thiện thần.
h. Từ kệ hiệu thứ 104 đến 106: Các vị Hiền Thánh Tăng truyền giáo, khai sơn tự viện và phiên dịch giảng giải Kinh, Luật, Luận.
i. Kệ hiệu thứ 107: thay thế lễ lạy bốn trọng ân (lãnh đạo Quốc gia, Đất nước, Thầy Tổ và Cha Mẹ).
k. Kệ hiệu thứ 108 hồi hướng, thay thế lễ lạy ân Pháp giới chúng sanh.
4. Các Tỳ kheo nhiễu Phật và trở về từng phòng tiếp tục tịnh niệm, nghiên cứu hay học tập. Các Sa di và tiểu đồng ở lại tụng Lăng Nghiêm và 10 bài Thần chú. Riêng Hòa thượng nhiễu Phật trở về thiền thất tiếp tục tọa thiền niệm Phật.
Qua nghi thức Lễ Sám của Hòa thượng biên soạn và hành trì có những vấn đề và hiệu dụng cụ thể được biểu hiện đậm nét.
1. Với kệ 10 hiệu đầu do Hòa thượng tự xướng, dù Hòa thượng không nói ra, nhưng chúng ta phải ngầm hiểu, vì đầu khóa lễ hay bất cứ một cuộc tập họp nào, ít hay nhiều vẫn có người đi trễ. Nhiếp chúng và làm Phật sự lâu ngày, Hòa thượng rút được kinh nghiệm đó, nên Hòa thượng rất thông cảm với chúng ta, không quá khe khắt để có thể mất hòa điệu hay nhịp nhàng, lúc khởi đầu xướng lễ .
2. Nghi thức Lễ Sám mang ý nghĩa tán dương Tam Bảo, nguyện giữ ba tụ tịnh giới (luật nghi, làm lành và lợi ích chúng sanh), thù đáp các trọng ân và cao hơn là cầu sanh Tịnh độ, quyết thành Phật Đạo.
3. Rèn luyện tâm ý, viễn ly tà niệm và thâu nhiếp chánh niệm. Khi xướng lễ, trong giây phút, nếu người nào không nhiếp niệm là liền quên thứ tự kệ xướng hoặc chẳng rõ đã xướng lễ đến kệ hiệu nào.
4. Rèn luyện đức tính cần cù, thức khuya dậy sớm, thể hiện lời di giáo của Phật, đấu tranh với ma ngủ, một trong năm dục lạc (tài, sắc, danh, ăn và ngủ).
5. Rèn luyện cách sống tập thể, hòa nhịp với mọi người, gọi là đồng sự. Thức dậy đồng đều, lên chánh điện đồng loạt, xướng kệ và lễ bái hòa hơi hòa nhịp.
6. Rèn luyện cơ thể dẻo dai, nhẹ nhàng, thư giản gân cốt, thân thon nhẹ, có phước tướng thanh nhã.
Chỉ suy nghĩ vài vấn đề và hiệu dụng như thế, chúng ta vẫn thấy được giá trị của nghi thức Lễ Sám do Hòa thượng biên soạn và hành trì . Vì thế suốt cả cuộc đời, ngoài phận sự đào tạo tăng tài, phục vụ Đạo pháp và Dân tộc, Hòa thượng đã dày công gắn liền với Lễ Sám. Ở đâu, đến nơi nào, Hòa thượng vẫn đều đặn kiên giữ và gia công đánh thức chúng ta lên chánh điện đồng xướng lễ. Đây là một công hạnh của Hòa thượng, đang được phổ biến và chúng ta cần phải noi theo, trong cuộc sống độc cư, tập thể hay còn tại gia.
Kính dâng giác linh Hòa Thượng Thích Trí Thủ.
Đệ tử THANH TRÚC
Huyền diệu quá chốn Già Lam quyện tỏa
Một trời thơ nở trắng vạn bông hoa
Người hóa thân trong cảnh sống Ta Bà
Đem ánh đạo rải từ Trung Nam Bắc.
Cả cuộc đời hy sinh vì Đạo Pháp
Hạnh nguyên tròn Người nhẹ gót lên đường
Để lại chúng con nỗi nhớ niềm thương .
Và trăng nước cũng ngậm ngùi luyến tiếc.
Viên mãn rồi Người an nhiên tịch diệt
Dù trãi qua trong mấy kiếp đường trần
Mà thường tại của diệu dụng Pháp thân
Vẫn sinh diệt đi ngang dòng bất diệt.
Không mẫu tự không văn chương trác tuyệt
Phút cảm giao thần diệu đấng siêu nhiên
Thoáng tâm linh phần nội tại nhập thiền
Thân khẩu ý như đêm rằm bạch nguyệt.
Hồn ngự trị đóa vô ngôn bất thuyết
Triệu con tim quỳ lạy nét thiên thu
Vầng sáng trưng gội tận chốn A-tỳ
Đáo-bỉ-ngạn say làn hương Thể-tánh…
THÍCH THIỆN SIÊU
Kính bạch Giác Linh Hòa thưọng,
Hôm nay vừa đúng hai năm sau ngày Hòa thượng an nhiên qui tịch. Hai năm hàng Tăng Ni Phật tử chúng tôi phải trải qua những ngày tháng trống vắng một bậc cao Tăng, một vị Thầy đạo hạnh tôn kính, có dáng mạo đoan nghiêm, đạo phong thanh thoát, thái độ ân cần thân mật, hoan hỷ bao dung, có nụ cười ấm mát tươi vui, biết quí người có học có đức nhưng không khinh chê người kém cỏi, sẵn lòng giúp đỡ mọi người không phân biệt việc lớn nhỏ, miễn thấy có lợi cho đạo cho đời xứng hợp với lòng từ bi thì không hề từ chối. Không ưa sống cuộc sống riêng lẻ cô tịch, mà ưa sống hòa mình vào đời sống của đại chúng để dìu dắt họ, sống giữa chúng Tăng đông đảo, cùng ăn với họ, chơi với họ, thậm chí có khi đi tắm biển, đánh pingpông, nhưng không vì vậy mà làm mất uy nghi, phai mờ đạo hạnh, lơi bỏ thời khóa tu trì, vun bồi đạo nghiệp. Đã sẵn mang hoài bão thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự, nên hễ gặp Phật sự gì đòi hỏi Hòa thượng đều sẵn sàng vui vẻ gánh vác, không luận chức vụ gì, khi làm trú trì, khi giáo sư, giảng sư, thư ký, hội trưởng, khi Viện trưởng Viện Cao Đẳng Phật học, Viện trưởng Viện Hóa đạo, khi Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ủy viên đoàn Chủ tịch Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tuy danh từ chức vụ có khác, nhưng không hề có sự mâu thuẫn giữa chức nọ với chức kia, vì trước sau trong tâm tư Hòa thượng cũng đeo đuổi một mục đích chí nguyện hoằng dương chánh pháp, lợi lạc quần sanh, thương yêu tổ quốc đồng bào với tinh thần vô ngã vị tha, với hạnh Phổ Hiền thượng cầu hạ hóa, với đức tánh tịnh mà không trầm, động mà không loạn, Ở trên người mà người không thấy nặng, Ở dưới người mà người không thể khinh. Hòa thượng đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp, cho dân tộc, cho nhân loại, cả trong nước lẫn ngoài nước theo lời thệ nguyện mà Hòa thượng đã nêu cao từ trước:
Đốt nén tâm hương trước Phật đài
Phổ hiền hạnh cả nguyện đừng sai
Biến thân cát bụi thần thông hiện
Chữa bệnh trầm kha khắp mọi loài.
Kính bạch Giác linh Hòa Thượng.
Hôm nay trước bảo tháp uy nghi, Giác linh tịnh mặc, chúng tôi đồng tâm kính
thành tưởng niệm, duy nguyện thùy từ chứng giám.
_____________
Trên đây là lời cảm niệm của Hòa thượng Thiện Siêu phát biểu tiếp sau bài tiểu sử cố Hòa thượng Già Lam đọc tại tháp đài trong ngày lễ đại tường và khánh thành Bảo tháp 2.2. Bính Dần – 1.3.1986
QUÁCH TẤN
Vào một buổi khuya thanh vắng, âm vang chuông chùa Hải Đức đồi Trại Thủy đã gợi lại tình cảm sâu đậm của nhà thơ Quách Tấn đối với cố Hòa thượng Giám Viện Phật học viện Nha Trang. Do đó, nhà thơ đã viết một thiên hoài niệm về Hòa thượng. Vì tập kỷ yếu chưa hội đủ các điều kiện, chúng tôi xin trích một vài đoạn để quí vị Tăng Ni và Phật tử xa gần thâm cảnh đạo tình của cố Hòa thượng và nhà thơ Nha thành. Mong tác giả cảm thông.
Ban thực hiện Kỷ Yếu.
Một buổi chiều xuân năm 1958, tôi lên núi Trại Thủy Nha Trang, thăm chùa Hải Đức. Tôi không vào chùa, tôi đi dạo chung quanh chùa nhìn tứ-vọng-cảnh, rồi ra sân xem những chậu hường, lấy giống từ Đà Lạt. Xa xa nơi bìa sân, một nhà sư áo nâu đứng lần chuỗi dưới gốc cây Bồ đề xanh tươi. Những hạt chuỗi đón ánh mặt trời như những vì sao óng ánh, nối nhau mọc rồi lặn, lặn rồi mọc, đều đặn ung dung. Hồi lâu nhà sư lặng lẽ đi ra sau chùa, lên Viện phật học cất trên hông đồi cao. Lòng tôi lâng lâng, và tôi có cảm giác rằng tôi là nhà sư. Đứng im một chỗ, nhưng tôi tưởng chúng tôi đương bước lên đầu non vừa đi vừa lần chuỗi. Cao hứng tôi sáng tác được một luật ngũ ngôn:
LẦN CHUỖI
Chuông ngân chùa xẩm nắng
Hương quyện áo tràng bay
Trăm tám vì sao rạng
Xoay tròn đôi 1óng tay
Mười phương cây lặng gió
Năm sắc hồ trôi mây
Làn nước lên đầu núi
Ánh vàng tràn đó đây.
Sau, biết được nhà sư lần chuỗi đó là Thượng tọa THÍCH TRÍ THỦ Giám đốc Viện Phật Học Hải Đức, tôi bèn chép bài Lần Chuỗi tặng Thượng tọa.Từ ấy chúng tôi trở nên quen nhau.Thượng tọa tuổi Kỷ-Dậu, tôi cũng tuổi Kỷ-Dậu. Thượng tọa lại thích thơ Đường-luật, tôi lại mộ Đạo Phật. Cho nên những lúc gặp gỡ thường hay quên thì giờ trôi nhanh, lâm lúc cũng quên rằng Đạo cũng như thơ không đứng hẳn ra ngoài vòng thế sự.
Lúc bấy giờ Phật Học Viện Hải Đức được phép mở một lớp học cho giới Sa- di, Sa-di-ni Khánh-Hòa học để thi tú tài. Thượng tọa mời tôi giúp môn Việt văn. Tôi nhận giúp vào ngày chủ nhật vì tôi đương làm công chức ở Nha Trang. Tôi dạy từ niên khóa 1958 – 1959 đến nửa niên khóa 1962 – 1963 .
Năm 1963, Thượng tọa về Huế, gặp Pháp nạn, bị chánh phủ Ngô Đình Diệm bắt, lành dữ thế nào; người Nha Trang không mấy người biết rõ! Tháng 9 năm ấy, nhớ cảnh nhớ người, tôi theo trăng lên chùa Hải Đức.
Tứ bề vắng lặng. Không thấy một bóng người, không thấy một bóng đèn. Chỉ nghe văng vẳng như có như không tiếng chuông ngân trong hơi sương anh ánh màu trăng lờ lợt! Tôi ngẫu chiếm một tuyệt ngũ ngôn:
Trăng lên đồi Trại Thuỷ
Chuông khuya ngời ánh ba
Bồi hồi mây khóa viện
Sân Bồ-đề sương sa.
Sau ngày chánh phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ, Thượng tọa mới trở về Nha Trang đọc mấy vần ngũ tuyệt tôi chép tặng, Thượng tọa rơm rớm nước mắt. Thượng tọa Thích Trí Thủ vào Sài Gòn được ít lâu thăng chức Hòa thượng và trụ trì chùa Già Lam. Chùa Hải Đức và Viện Cao Đẳng Phật Học giao cho Thượng tọa Thiện Siêu và Đại đứcTrừng San, quản lý, thỉnh thoảng Hòa thượng mới về Nha Trang, tôi chỉ đến thăm có một lần. Vì mỗi lần Hòa thượng về, phần thì lo Phật sự, phần phải tiếp khách hết lớp này đến lớp khác, không mấy lúc được rảnh rang.
Mãi đến năm 1968 Hòa thượng về Nha Trang, nghe tôi thoát chết vì bệnh mạch lươn phải mổ đi mổ lại đến sáu lần bèn cùng Đại đức Trừng San xuống nhà thăm. Mừng quá đỗi mừng. Thân tâm tôi vui khỏe như được uống một chén sâm Cao Ly. Trong dịp này Hòa thượng đã giúp tôi xuất bản tập XỨ TRẦM HƯƠNG.
Năm 1973, tôi lại bị bệnh Thanh quang nhãn (Glaucome) đui hết một mắt. Được tin không vui ấy, một lần nữa Hòa thượng cùng Đại đức Trừng San tìm đến thăm.Trong hai lần đến thăm, tôi không nhớ lần thứ nhất hay lần thứ hai Hòa thượng khen là “thơm dịu’ bài Chuông Khuya trong tập Đọng Bóng Chiều:
Từng giọt châu rơi mắt mẹ hiền,
Mừng con lưu lạc trở đoàn viên
Neo thu bến tình thuyền sương sóng
In bóng chùa xa trăng nửa hiên.
Tôi thưa:
– Chuông đó là chuông chùa Hải Đức, chùa đó là chùa trên Trại Thủy in bóng xuống Cù Giang.
Đoạn kể tiếp:
– Sau hiệp định Genève, tôi hồi cư về Nha Trang. Từ ấy đến nay trên 15 năm (1957 – 1973) cứ mỗi buổi sáng lúc 4giờ 30, tôi thức dậy nằm nghe chuông, chuông chùa Hải Đức gióng trước rồi đến chuông chùa Sư Nữ. Có một điều là chùa Sư Nữ ở cách nhà tôi một khoảnh đầm rộng không đến 500 thước, còn chùa Hải Đức ở tận Trại Thủy cách xa hơn một cây số, thế mà tôi lại nghe tiếng chuông Hải Đức rõ hơn chuông Sư Nữ.
– Hòa thượng cười:
– Có gì lạ đâu, chuông Hải Đức đã lớn lại ở trên cao, còn chuông Sư Nữ vừa nhỏ thưa vừa ở dưới thấp, bị nhà cửa vây bọc tứ phía…
– Tiếng chuông Hải Đức có tiếng ngân vừa dài vừa ấm, dài ấm mà rất trong. Nhưng… Nhưng trong khoảng gần đây thỉnh thoảng tôi nghe tiếng chuông có hơi rè.
Hòa thượng giải thích: Đó là do mấy chú điệu còn ngái ngủ, không động chùy vào cục u mà lại động trật ra thành chuông.
Đại đức Trừng San cải chính:
– Con e không phải thế. Sợi dây da cột chuông đã quá cũ, con sợ lâu ngày rũi đứt nên đã lấy dây xích sắt thay vào. Khi đánh chuông cạ vào dây xích nên có tiếng rè.
– Mấy tuần sau, gặp tôi, Đại đứcTrừng San nói: Tai bác thính quá! Tôi về coi kỹ lại thì tiếng chuông rè không phải vì dây xích, mà vì trên đỉnh chuông có một đường nứt. Chùa chuẩn bi đúc một quả chuông mới…
Tôi chưa có dịp đến xem quả chuông mới, nhưng vẫn được nghe tiếng ngân vào mỗi buổi sáng. Tiếng ngân vẫn ấm, vẫn trong vẫn dài nhưng lại có phần lớn hơn tiếng chuông cũ. Quả chuông mới không treo nơi Viện như quả chuông cũ mà đem lên trên đỉnh đồi, gần Kim Thân Phật Tổ. Nghe nói lúc làm lễ treo chuông mới, Hòa thượng Thích Trí Thủ có về dự. Nhưng biết rằng khách đến thăm Hòa thượng đã quá đông rồi, mình đến nữa chỉ làm rầy Hòa thượng thôi, nên không tìm gặp. Năm 1974, nhân có việc vào SàiGòn tôi tìm đến chùa Già Lam…
…Tôi vào Hòa thượng mừng rỡ.
Tôi được tiếp nơi phòng khách rộng mát, bài trí rất trang nhã. Hòa thượng đối với tôi vẫn ân cần niềm nở như xưa… .. Tôi vừa nhớ, một buổi sáng chủ nhật, mặt trời vừa mọc tôi vừa đến sân chùa. Thưọng tọa Giám Viện đương đứng bên khóm tường vi, thấy tôi, lấy tay ngoắt. Tôi đến cùng Hòa thượng lặng lẽ đứng thưởng hoa. Hoa đầy cành, lớp búp, lớp nở. Cánh thắm ươn ướt sáng mai, mùi hương ngọt dìu dịu…Lòng tôi lâng lâng… Đoạn Thượng tọa hái hai đóa hoa bán khai và mời tôi lên cốc. Cảnh yên tịnh. Thượng tọa tự tay chế trà với hoa tường vi, cùng tôi ngồi đối diện, vừa uống trà vừa nói chuyện.Tôi khen: “Hương ngát vị ngọt”. Thượng tọa nói: “Nhất sen, nhì sói, thứ ba mới đến tường vi”. Rồi phân tích hương vị từng mỗi thứ trà ướp hoa. Tôi tuy không nghiện trà, nhưng nhờ lúc nhỏ được nghe ông nội và bà thân tôi thường bàn về trà, lớn lên lại được đọc đôi quyển sách Nhật nói về Trà Đạo, đôi quyển sách của Tàu nói về nghệ thuật chế trà và pha trà, nên ngồi với nhà sư rành trà, tôi không đến nỗi phải làm”con cò ngóng cổ nghe kinh”. Nhân nói về hoa trong trà, chúng tôi nói sang đến hoa trong thơ rồi đến thơ trong đạo, rồi đến đạo trong hoa… Chuyện thao thao bất tuyệt : Một chú điệu ngồi trên chiếc đôn nơi góc phòng, thiu thỉu ngủ
Lại một hôm nữa tôi đến Hải Đức vào buổi chiều. Thượng tọa Giám Viện nằm trên võng cột dưới giàn hoa bạch chỉ cạnh hiên phía đông chùa. Ông TRẦN ĐÌNH LẠC một người bạn đồng sự với tôi và là đệ tử thân tín của Thượng tọa, ngồi bên võng, trên mé thềm hiên chùa. Thấy tôi Thượng tọạ ngồi dậy bảo ông Lạc đi bưng ghế. Tôi không ngồi ghế mà ngồi ngay nơi chỗ ông Lạc đã ngồi. Thượng tọa vui vẻ nằm lại xuống võng, cùng tôi nói chuyện. Nhân thấy ông Lạc cầm quyển kinh DUY MA CẬT, tôi nhớ đến bài từ TÔ ĐÔNG PHA tặng TRIỆU VÂN:
Bạch phát thương nhan
Chánh thị Duy Ma cảnh giới,
Không phương trượng tán hoa hà ngại
Chu Thần trợ điểm
Cánh kế hoàn sinh thái.
– Tôi cao hứng ngâm khẽ .Ông Lạc yêu cầu tôi giải nghĩa. Tôi giảng:
Tóc bạc da mồi, chánh là cảnh giới của Duy Ma Cật. Nơi phương trượng trống không, nàng thiên nữ tán hoa, ngại gì mà không điểm giúp một nụ cười thơm thắm, để cho mái tóc già này xanh xanh trở lại. Một khay trà bưng ra. Mùi hoa sói thơm ngát làm cho hương vị thêm nồng.
– Biết rằng Thượng tọa Giám Viện là một nhà sư giữ giới rất nghiêm, nhưng tâm hồn luôn phóng khoáng, nên tôi không ngần ngại, đem câu chuyện tình giữa TÔ ĐÔNG PHA và TRIỆU VÂN kể cho ông Lạc nghe, rồi nói:
– Ông Tô sánh Triệu Vân với Thiên Nữ Tán Hoa của Duy Ma Cật. Thượng tọa Giám Viện liền kể sự tích Duy Ma Cật cho ông Lạc và tôi nghe… Câu chuyện nối tiếp từ Duy Ma Cật-Đông Pha đến Đông Pha-Phật Ấn…Khách đến Đại đức Trừng San ân cần mời vào nhà tiếp tân. Nhờ vậy mà câu chuyện phong lưu dưới giàn hoa không bị gián đoạn… Trí óc tôi đương cặm cụi quay lại cuốn phim “Chùa Hải Đức” thì tai vụt nghe “Bạch Hòa thượng”. Phim đứt. Tôi giựt mình nhìn quanh: Bên cạnh Hòa thượng Trí Thủ, một Sa di đương đứng khép nép và ngoài sân có bốn, năm vị khách đàn ông có đàn bà có, đương đứng chờ. Tôi vội vàng đứng dậy. Hòn thượng cũng đứng dậy đưa tôi ra cửa…
Từ ấy cho đến ngày Hòa thượng viên tịch, trên 10 năm trời (1974 – 1985), tôi không gặp lại Hòa thượng lần nào nữa.
Không gặp nhưng tôi vẫn luôn luôn nhớ Hòa thượng và tin tức về Hòa thượng tôi vẫn biết được đại cương…
Hòa thượng THÍCH TRÍ THỦ đã qua đời, nhưng tình Hòa thượng còn mãi trong lòng tôi. Hình ảnh Hòa thượng thường hiện rõ trong tâm trí tôi, với mùi hoa tường vi, mùi hoa sói với phong cảnh chùa Hải Đức tuy quen thuộc song luôn luôn mới mẻ trong bầu không khí u tịch thanh cao.
Và ngày hôm nay, 1 tháng 9 năm Bính Dần, tức 21 tháng 10 năm 1986, lúc 4 giờ 30 sáng, nằm nghe chuông chùa Hải Đức như thường lệ, tự nhiên tôi nhớ Hòa thượng da diết. Hai hàng lệ chảy ròng ròng!
Người già hạt lệ như sương
Mình già hạt lệ lại thường như mưa!
Để dâng lên Giác linh Hòa thượng, tôi viết chương ký ức này. Nhớ gì viết nấy, nhớ đến đâu viết đến đó, không lập ý, không bố cục. Chăm chỉ viết từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn. Viết với tấm lòng kính cẩn chân thành.
TỐI 29 THÁNG 2 GIÁP TÝ: Đại chúng Già Lam họp thường lệ trước ngày Bố tát để kiểm điểm việc tu học và hành đạo. Nơi trai đường, cuộc họp đang diễn tiến với sự có mặt đầy đủ thầy Trụ trì, thầy Giám học, Tăng chúng và học chúng thường trú…
Lúc 21 giờ, bỗng chú điệu hầu chạy xuống phòng họp nói: Thưa quý thầy, Ôn mệt.” Chúng tôi linh cảm có cái gì không yên trong lòng, vội rời phòng họp, chạy lên lầu thăm Ôn, để biết tình hình cụ thể về sức khỏe. Ôn đang nằm trên giường, nghe tiếng chúng tôi, Ôn gọi lại dạy: “Đau ngực! Làm sao cho mau hết đau?”
Sau khi xuống trình lại với quý thầy đang họp, thầy Trụ trì, thầy Minh Tuệ và một số quý thầy liền ngưng họp vội lên thăm Ôn. Nhận thấy cần phải đi bệnh viện sớm để theo dõi sức khỏe, quý thầy thưa Ôn, Ôn bằng lòng đi bệnh viện…
NGÀY 30 THÁNG 2 NĂM GIÁP TÝ: Các bác sĩ chẩn đoán tối qua sau lần hội chẩn, đã quyết định để Ôn nằm điều trị ở phòng cấp cứu tim mạch, dưới sự săn sóc của bác sĩ thường trực…Ôn vẫn tỉnh táo và thường xuyên gọi chúng tôi bảo chuẩn bi mọi việc chu đáo để tuần sau đi Hà Nội khai mạc hội nghị thường niên của Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội. Mặc dù nằm trên giường bệnh, Ôn luôn luôn nhắc quý thầy, hỏi han các Phật tử. Ôn dạy: Quý thầy bên ngoài có được thường không? Hôm nay ngày sám hối, thọ Bát quan trai, các Phật tử dưới chùa đi thọ bát nhiều không? Chúng tôi thưa: “Bạch Ôn, Quý thầy vẫn thường. Chúng thọ bát vẫn đông như thường lệ. Ôn dạy: “Tre tàn măng mọc đó nghe!” Chúng tôi lặng người đứng yên bất động lòng nao nao lo sợ.
NGÀY 1 THÁNG 3 GIÁP TÝ: Việc sắp đặt hầu Ôn được bổ sung thêm hai chú Sa di nữa nên đỡ bận rộn. Trưa nay,giao hai chú trực chúng tôi mới có dịp đi dạo vòng ra phía ngoài hành lang. Chợt thấy một tấm bảng ghi phấn trắng, tò mò lần đến xem, thì ra đấy là bảng ghi tên các bệnh nhân cần được bác sĩ thường trực săn sóc đặc biệt. Từ chuyên
môn của bệnh viện gọi là “Bệnh điểm”.Tuần tự dò từ ngôi thứ nhất xuống, chúng tôi giật mình: số 13! Thích Trí Thủ. Ôn là người thứ 13! Không mê tin dị đoan, nhưng tự nhiên chúng tôi thấy lòng mình rối lại, buồn thật là buồn, cổ họng nghẹn lời và nước mắt trào ra!…
NGÀY 2 THÁNG 3 GIÁP TÝ : Ôn vẫn tỉnh táo, vẫn thường gọi chúng tôi hỏi chuyện. Chợt Ôn dạy: Đạt Đạo ơi! Chắc không sống quá! Chúng tôi không cầm được nước
mắt thưa:
– Bạch Ôn! Không có sao đâu, Ôn đừng nói vậy con sợ lắm!
20 giờ tối, Ôn dùng sữa xong, giao hai chứ trực hầu, chúng tôi dùng cơm ,tối, lúc đó nghe tiếng chú Sa di hầu Ôn đang tụng bài “Nhất tâm quy mạng “. Ôn vẫn thường hay bảo tụng cho Ôn nghe bài này mỗi khi Ôn thấy trong người tứ đại bất an.
20 giờ 45 phút, Ôn còn thức, chúng tôi thưa:
– Bạch Ôn nằm nghỉ, 9giờ con sẽ mời bác sĩ vào thăm Ôn lại.
Ôn gật đầu.
Chúng tôi lên giường nằm nghỉ, dặn hai chú trực 21 giờ gọi tôi dậy. Vì thiếu ngủ và mệt mỏi, mới đặt lưng chúng tôi đã ngủ liền.
– Thầy ơi! Ôn mệt.
Chú Sa di hầu Ôn vừa gọi vừa giật chân. Chúng tôi nhảy vội xuống giường, chạy đến Ôn, thấy Ôn nhắm mắt lặng người. Chúng tôi chạy ra gọi bác sĩ cấp cứu. Thấy Ôn hơi khỏe, chúng tôi đến bên:
– Ôn ơi! Ôn ơi! Con là Đạt Đạo đây Ôn ơi!
Ôn vẫn nhắm mắt, một hơi thở nhẹ hắt ra. Kim đồng hồ chỉ 21giờ 15 phút. Làm thị giả hầu Ôn bao nhiêu năm như hình với bóng, giờ đây Ôn thực sự không con nữa. Cả bầu trời sụp đổ trong lòng tôi!…
THÍCH ĐẠO ĐẠO
VIỆT TỦY
Giữa đời ngũ trược sông siêu phàm
Bát nhã thuyền đưa khắp Bắc Nam
Phổ Tế, Tra Am về Diệu Hỷ
Ba La, Báo Quốc, trụ Già Lam
Hội trường quốc tế danh Hòa thượng
Học viện Nha Thành vọng Pháp âm
Chuyến đi lần cuốí mùa sen nở
Hoa cỏ còn vang dội tiếng thơm.
Xuống núi GÁNH NƯỚC, Lên rừng KIẾM CỦI
THÍCH TỪ MẪN
Vào dịp Tết Nguyên đán, tôi đã nhận được thư của Tu viện Quảng Hưong Già Lam gửi chúc mừng năm mới Đinh Mão,đồng thời nội dung của thư cũng cho biết quyết định của Tăng ni Phật tử thuộc môn đồ pháp quyến của Ôn Già Lam và Báo Quốc đã họp và nhất trí vào dịp giỗ đầu hai Ôn sẽ thực hiện tập kỷ yếu .
Tôi rất sung sướng nhưng cũng rất buồn.
Sung sướng vì quý vị đã nghĩ đến công hạnh của hai Ôn bằng kỷ niệm, ghi lại hình ảnh sống động về cuộc đơi hành đạo của hai Ôn bằng tất cả cảm nghĩ của đàn hậu sanh được sự giáo dục của hai Ôn.
Rất buồn ngày Ôn chúng ta (Già Lam) viên tịch, tôi là người bất hạnh, trong lúc đó đang bệnh, không vào Già Lam được để đảnh lễ và tiễn đưa nhục thân của ân sư đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Cũng là điều bất ngờ thay, tôi được gặp Ôn Thanh Trí (Báo Quốc) vào Đà Nẵng để đi Sài gòn cư tang Ôn Già Lam. Có ai ngờ rằng đây là lần cuối cùng được hầu chuyện với Ôn và tiễn đưa Ôn lên xe lần này cũng là lần cuối cùng tiễn biệt.
khi tôi tiễn đưa Ôn cùng phái đoàn Huế và Đà Nẵng trên chuyến xe du lịch vào Già Lam để dự tang lễ cố Hòa thượng Chủ tịch. Ôn dạy: “Thôi Từ Mẫn bịnh, có thể ở nhà, ôn Già Lam thương Từ Mẫn lắm, không có trách đâu.”
Tang lễ cố Hòa thượng Chủ tịch xong, sau đó 3 ngày, có ai ngờ rằng Ôn Báo Quốc cũng về cõi An dưỡng với Ôn Già Lam.
Hai Ôn có hẹn chăng?
Hồi tưởng lại khi còn là Tăng sinh Ở Phật học đường Báo Quốc vào những năm 1952-1953 là những năm nhà trường còn thiếu thốn mọi mặt: điện và nhất là nước, lúc bấy giờ nhà trường chưa có nước máy như bây giờ. Dưới dốc chùa vỏn vẹn chỉ có một cái giếng mà cả xóm đều đến gánh. Vào mùa an cư kiết hạ nước trở thành một thứ hiếm.
Ôn Thanh Trí (Báo Quốc) đợi cả xóm nghỉ gánh nước, Ôn mới xuống múc nước từ lúc 9 giờ mãi đến khuya, đầy các thùng phuy rồi gánh lên chùa. Nước đầy bể, Ôn mới đi nghỉ. Chúng tôi xuống múc thay Ôn, Ôn bảo, “Các chú lên đi, các chú lo học bài cho mùa thi sấp đến, việc này tôi làm được. Tôi chỉ mong sao các chú chăm lo học hành, để ngày sau trở thành người hữu dụng cho đạo pháp, thì tôi cũng được dự phần công đức.” Ôi! Hình ảnh hy sinh, tận tụy cho chúng tăng làm sao phai mờ trong tâm trí con và anh em học tăng, được sống dưới mái trường thân yêu, được sự lo lắng che chở cho, quí Ôn như người Mẹ hiền.
Tuy vườn chùa rộng lớn, song toàn cây ăn trái và cây cảnh hoa, lá nên củi cũng hiếm, thổi cơm toàn bằng lá khô, dân học tăng quét gom lại, cho các bà hậu cần. Một hôm, Thầy Đốc (ôn Già Lam) họp chúng bảo: bây giờ trường thiếu củi, vả lại để cho anh em đi du ngoạn một chuyến cho thoải mái, chúng ta tổ chức đi củi. Thế toàn thể học tăng, mỗi người phải mượn một cây rựa để cuộc lên rừng đạt chỉ tiêu, người đi thuê ghe, kẻ lo cơm nước, sáng mồng 6 thoáng 12 là lên đường. Tính sao về kịp lễ Thành Đạo của Đức Bổn Sư, 8.12 âm lịch.
Thế là hai chiếc ghe bắt đầu rời sông Bến Ngự, từ từ tiến lên lăng Minh Mạng.
Tối đến như thường lệ, Ôn dạy: “Đi đâu ở chỗ nào cũng phải giữ qui củ Thuyền môn hành trì. Vì thế, đúng 7 giờ 30 tất cả đều nghiêm chỉnh tụng kinh như thường lệ. Sau thời kinh, ghe cặp bến lăng Minh Mạng. Chúng tôi vẫn nghỉ trong ghe. 4 giờ sáng như thường lệ, Ôn dậy thức chúng công phu và thổi cơm, ăn sáng. Trời vừa sáng chúng tôi bắt đầu rời ghe vào rừng. Một lúc sau, bầu trời mây bao phủ và đổ mưa tầm tả. Chúng tôi vẫn chịu ướt, chịu lạnh, cứ hai người một cây, tiếng búa rìu bổ vào cây vang dội cả khu rừng. 10 giờ trưa cây ngã ngỗn ngang, ngập cả lối đi .
Anh em vừa nghỉ thì chợt một toán ba bốn người đến nói to: “Ai cho mâý ông vào đốn thông ở đây, khu này là quốc cấm các ông có biết không? Mời các ông đem búa rìu về trạm kiểm lâm làm việc!”.
Tất cả anh em nhìn nhau, nói với nhau, rứa là tụi lính bị bắt nhốt rồi. Có cậu hoảng la chí chóe: “Ôn mô rồi?” Có người biết bảo Ôn vào lăng thăm rồi. Một lát sau Ôn về không thấy anh em đâu, Ôn hỏi chú học tăng còn lại giữ đồ, chú trưởng học tăng trình Ôn biết., Trưởng toán kiểm lâm vào đây bắt anh em vào trạm cả rồi.
Trong lúc đang lo sợ thì Ôn vừa đi vào, với phong độ uy nghi, bình tĩnh Ôn vái chào theo thuyền môn: A Di Đà Phật. Các vị lính kiểm lâm mời Ôn ngồi trình bày sự việc. Chúng tôi ngồi cả dưới đất hồi hộp. Vừa đói bụng vừa lo lắng, sợ họ mời Ôn đi thì cả bọn bơ vơ, không biết tính toán làm sao bây giờ. Thì may quá, ông trưởng đồn kiểm lâm vừa vào-Ôn đứng dậy chào hỏi.
Ông trưởng kiểm lâm ôn tồn hỏi: Trời ơi! Ôn đi đâu cực khổ lạnh lẽo rứa
Ôn bảo: Lâu quá không đi tham quan lăng, luôn tiện cho anh em học tăng họ đi cho biết lăng, nhân đó kiếm ít củi về dùng, chùa nghèo quá, không có tiền mua củi, không may là nơi quốc cấm.
Sau khi mời Ôn dùng trà – Ông trưởng kiểm lâm thưa Ôn: Đây là khu quốc cấm, vì là thuộc phạm vi của lăng. Nếu là thường dân thì sẽ bồi thường lớn lắm, và ở tù cũng nên.
Ôn nói: Chúng tôi nghèo, việc ấy làm sao giải quyết. Ông trưởng kiểm lâm thưa: Việc ấy thôi Ôn để tôi giải quyết.Vì vừa là một con cháu của dòng họ Nguyễn Khoa, chùa Ba La nơi Ôn đan kiêm nhiệm trú trì, vừa thấy chúng tôi chẳng phải là người chuyên nghiệp đi kiếm củi, vừa thấy chúng tôi chịu mưa lạnh mà với khu rừng rộng lớn bao la, ngã một vài cây thông chẳng có là bao.Ông trưởng kiểm lâm tiễn thầy trò chúng tôi ra về. Bấy giờ anh em lo thu xếp thật nhanh để có thể hai giờ là rời bến, theo lệnh Ôn. Hơn nữa, trời vẫn mưa, nước sông vẫn dâng cao, chúng tôi phải về trước khi đêm xuống.
Sau 4 tiếng đồng hồ, ghe đã về bến Ngự. Nước lụt đã lên mé đường. Ôn dạy: Bỏ củi lên bờ. Đêm tháng chạp ở Huế, mưa lai rai, lành lạnh, bỏ xuống xong chúng tôi phải vác về Báo Quốc.
Hai giờ khuya, hai thuyền củi đã về nằm ngỗn ngang ở trường Báo Quốc.
Ôn dạy: “Thôi tắm rửa ăn cơm đi nghỉ để khuya còn lễ vía Thành Đạo.”
Về đến chùa, anh em ai nấy mệt lã, nhưng cũng thấy lòng vui nhộn, vì có nhiều kỷ niệm trong chuyến đi ghé thăm lăng và kiếm củi này. Mãi đến nay, đã gần 30 năm qua rồi, những học Tăng từng ở Báo Quốc, nhắc lại chuyện này chắc không mấy ai không ngậm ngùi thương mến thầy Đốc.
Hôm nay nhân ngày giỗ đầu hai Ôn con ghi lại đây những mẩu chuyện nho nhỏ này để bày tỏ mối tâm tình tưởng nhớ đến hai Ôn
Bấy giờ, hình bóng của Ôn không còn ngã dài trên bước đường: “Đại Phật tuyên dương, truyền bá chánh pháp”, ở thế gian này nữa. Song hai Ôn sẽ thỏa nguyện. Vì có đàn hậu học tiếp nối sự nghiệp của hai Ôn. Con cũng như anh em nguyện suốt đời đi trên con đường hai Ôn đã đi. Nguyện làm những gì mà hai Ôn đã làm. Có những lúc về Huế, ghé lại Phổ Đà, Ôn luôn luôn dạy chúng con: “Nguyện bách kiếp thiên sanh, xứ xứ đồng vi pháp lử”.
Với lời nguyền trên, con tin tưởng rằng dù nhục thân của hai Ôn đã xả, nhưng pháp thân của hai Ôn vẫn du hóa ở thế giới này, hay ở một quốc độ khác.
Con cũng từng mong sao được như lời nguyện của hai Ôn, để rồi chúng con, đời này hay ở một kiếp khác, dù thay hình đổi dạng và ở đâu vẫn được thực hiện ý nguyện:
“Trưởng ngộ minh sư
Chánh tín xuất gia
Thừa sự chư Phật
Lợi lạc hữu tình”.
Ngưỡng mong Giác linh nhị vị Hòa thượng chứng giám.
CHUYỆN PHIẾN ĐÁ ĐỀ THI
TÂM TẤN – Nha Trang
Mùa đông gió bão năm 1973, Ôn về Phật học viện Hải Đức, trong hai tuần lễ làm Phật sự.Mấy lần lên hầu thăm Ôn, đều thấy Ôn bận chỉ vẽ cho mấy Thầy xây Non Bể Bản Đồ Việt Nam, tôi cũng giúp mấy Thầy tìm mua cho ra những ngôi chùa, cái tháp, cái cầụ, Tượng Phật, ông câu, voi, rùa, thỏ v.v.. bằng chất gốm, men, để gắn vào các khe, cây, mới tạo giả cảnh. Mới trông vào, tôi cũng nghĩ Ôn tạo cảnh vui mắt để tăng vẻ nên thơ cho thiền thất. Khi đã tạm hoàn thành non bộ chử S, hội đủ hình ảnh chùa, miếu tượng trưng cho 3 miền. Một chiều, Ôn ngồi dùng trà ngoài hiên. Cầm tách trà nhấp một hớp, mắt nhìn non bộ âu yếm, rồi trầm tư: “Mong cho Bắc Nam hòa hợp, cho đất nước khỏi nạn tai, đồng bào an lạc.Thương quá! Đất mẹ quá khổ, cằn khô vì chiến cuộc kéo dài. Xây bản đồ ni là để nguyện cầu hòa bình cho đất Mẹ..”
Tôi lặng nghe giọng Ôn nói mà tưởng nhự tiếng thở dài của núi sông..Và tức khắc cảm ứng được tâm niệm chí thành của Ôn với việc xây non bộ.
Trước ngày Ôn vào lại Già Lam, Ôn chỉ vào một góc nơi non bộ, bảo tôi:”Chỗ ni mà dựng một phiến đá, kẻ lên một bài thơ vịnh bản đồ Việt Nam thì hay lắm đây! Tâm Tấn làm đi.”Bạch Ôn, bài thơ vịnh đó phải là bài thơ của Ôn sáng tác”. Ôn cười: “Ờ, để tôi nghĩ coi, có nhiều ý mà chưa thành vần.Tôi sẽ gởi ra”. Mấy tuần sau Thượng tọa Đổng Minh vào Già Lam đem về bài thơ của Ôn, trao cho tôi. Ngoài bì thư, Ôn viết: Tâm Tấn xem xong rồi giao cho Phước Đường và Minh Thông. Giao, tức là giao cho hai thầy cái việc tìm đá gắn vào non bộ, và viết bài thơ lên đá đó. Tôi tìm hai thầy trao bài thơ và nói qua tâm niệm cùng nhắc lại ý muốn của Ôn. Mười ngày sau lên thiền thất, đưa mắt qua non bộ, vẫn.chưa thấy mô đá hiện bài thơ, hay là thơ đề trên đá! Tìm hỏi, hai thầy cười hỏi lại: “ Đá đâu mà thơ! Bà giỏi tìm đá đem lên”.Tôi cũng cười, nhưng không hứa lời chi. Lặng lẽ bước chậm qua đường đồi, nghĩ việc thực hiện phiến đá đề thi, coi dễ mà khó, nhưng khó mà dễ nếu mình bỏ công…Ừ, gắn dâng Ôn chút niềm vui nhỏ: Khi về thăm viện, nhìn bản đồ, Ôn sẽ hoan hỷ vì những trang lòng của Ôn đã trải kề bên.Tôi đón xe lam ra Đồng Đế, bảo ngừng xe lại chỗ núi, nơi có thợ chẻ đá. Từ đường quốc lộ vào chỗ thợ chẻ đá rất xa mà khó đi. Ngồi gần một giờ, chờ thợ chuốt viên đá lớn cho nhẵn, lại ra đường đón xe ba gát, vì xích lô nơi khoảng đường ấy không có. Trả tiền thuê xe, còn trả tiền công họ khiêng đá từ trong núi ra đường, bỏ vào xe, tôi leo lên ngồi chung xe với cục đá, đó là lần đầu tiên tôi ngồi xe ba gát! Tưởng tượng cục đá vô tri này, nay mai được nổi lên bài thơ của Ôn Hòa thượng được ẩn bên vườn cảnh khung thiền, tôi quên nghĩ đó là cục đá, mà lại nhìn nó với vẻ quí trọng. Đây là Phiến đá đề thi. Xe chở thẳng về viện, tôi giao thầy Minh Thông và yêu câu thầy Hạnh Thông, người viết chữ đẹp,dùng sơn viết bài thơ. Tôi kể chuyện ngồi xe ba gát với cục đá, và nói đùa: Thấy tài đảo hải di sơn chưa! Đem núi Đông Đế về Hải Đức đó. Mấy thầy cười quá.
Chuyến sau, Ôn về Hải Đức. Lên hầu thăm Ôn, Ôn cũng đem khay trà ra ngồi bên hiên, ban cho một tách trà thơm, Ôn hỏi: “Nghe mấy thầy nói Tâm Tấn ra tận Đồng Đế khiêng đá về? -Dạ, con mô có khiêng nổi! Một cục đá nớ mà vận dụng cả xe ba gác, thưa Ôn. Ôn cười: “Rứa đá trong tâm chở bằng xe chi?”. Tôi giật mình nhìn lên, thấy Ôn cười và đang chờ câu trả lời. Tôi cũng cười thưa: “Bạch Ôn đá trong tâm thì xe mô chở nổi! Uống vài liều thuốc đắng sẽ tự tiêu.” Ôn lại hỏi: “Rứa có gặp phải thuốc đắng, cố mà nuốt đừng than chớ?” – Dạ, con không than!
Kính lạy Giác linh Ôn, bao nhiêu chất đắng con đã uống qua, nhưng có lẽ chưa cạn tận cùng chiếc cốc nghiệp quả, cho nên đá trong tâm vẫn chưa được tiêu tai. Tuy nhiên, mỗi khi gắng nuốt những đắng cay giữa cuộc thế, con nhớ lời Ôn dặn, dạ, con không than… …
Đôi lần, muốn tìm phút giờ yên tĩnh, khi về Viện Hải Đức thường lên Tịnh thất, bước quanh non bộ rồi dừng lặng nơi hiên, chỗ Ôn ngồi uống trà, Nhớ lời Ôn, 15 năm qua rồi, mà như mới đâu đây! Phiến đá đề thi rêu xanh nhuộm sắc thời gian, cánh chiếc én bơi bổng giữa lòng sông, trong không hoạt họa, ý thơ xưa còn đẹp một khung trời.
Tết Đinh Mão
THÍCH HUỆ HƯNG
Hơn sáu mươi năm ở cửa “Không”
Rải mầm Bát nhã khắp non sông.
Ba miền Phật Giáo còn ghi dấu
Một cảnh Già Lam trọn khắc công
Giáo hội Tăng đoàn tôn Chủ tịch
Thiền gia pháp lữ trọng tông phong
Xứng hàng trưởng lão đời hy hữu
Hậu bối chân thành tưởng niệm Ôn.
Lạy Hòa thượng con không quên được,
Ngài dạy con trên bước tu hành.
Gần đây trong cuộc hành trình,
Tham quan miền Bắc Ngài dành cho con.
Từ ngày đó tính hơn sáu tháng,
Vì thiếu duyên con chẳng gặp Ngài.
Để con báo cáo nhũng ngày,
Con chờ phương tiện trở về Nha Trang.
Như trời sập Thanh Hương cho biết:
Ôn Già Lam nhập Niết Bàn rồi!…
Tim con đập mạnh liên hồi
Mắt con rướm lệ, ôi thôi còn gì!
Con lảo đảo chân đi không được,
Con cắn răng nước mắt vẫn tràn.
Tai bùng ruột thắt hoang mang,
Tại sao đột ngột Niết bàn vậy ôi!
Ngài viên tịch đạo đời đều mất,
Mất vị Thầy, mất bậc chân tu.
Giáo đồ bảy chúng hiền ngu,
Triệu người như một quá ư đau lòng.
Ngài là đấng thiệu long Thánh chủng,
Ngài là người lương đống Thiền gia.
Bao nhiêu tâm niệm thiết tha,
Ngài đều gởi trọn vào nhà truyền đăng.
Trường hợp gặp khó khăn trở ngại,
Ngài vững tâm không ngại gian nguy.
Tòa nhà Phật giáo hiện nay,
Là điều cụ thể việc này chứng minh.
Con mạn phép kính trình vài nét,
Tiếng của lòng không biết gì hơn
Dù cho biển cạn non mòn,
Con thề noi gót sắt son trọn đời.
Nha Trang ngày 18.3. Giáp Tý
Pháp tử THÍCH ĐỔNG MINH khấp bái.
HẢI NHƯ
Trích báo Giác Ngộ , số 190, 15.4.1984
Tháng 9 năm 1982, trên đường đi dự Đại hội thành lập Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Lâm Đồng về, Đoàn đại biểu Giáo hội Trung ương từ Đà Lạt không về lối cũ mà băng lối khác: lối qua Nha Trang rồi mới trở về thành phố Hồ Chí Minh. Thầy Trí Thủ – tôi xin phép được gọi là Thầy như thuở Hòa thượng còn sinh thời cho thân thuộc đã luôn luôn kéo tôi ngồi gần để trò chuyện về cảnh quan đất nước. “Đất nước ta đâu cũng là bức tranh, bức tranh đẹp mà nhiều đất nước khác không thể có. Tôi đi nhiều nước, tôi thấy họ phải tạo ra
núi giả, suối giả để lấy tiền du lịch. Anh là nhà thơ, nhà thơ có thấy núi và suối có sẵn, ta phải biết thưởng thức thiên nhiên gấm vóc như ông cha ta phát hiện ra cho ta chứ?”Vị cao Tăng cứ đến mỗi chỗ ngoặt của xe đỗ dốc lại reo lên như trẻ thơ và quay sang tôi ngôi cạnh chia xẻ niềm vui. Ngắm nhìn vẻ mặt đôn hậu và hồn nhiên của nhà sư thuộc hàng trưởng lão tự hào về cảnh quan đất nước, tôi bỗng hiểu ra tinh thần dân tộc được bồi đắp trong mỗi con người nhà tu hành này có gốc rễ sâu xa. Phật giáoViệt Nam từ thời Lý Trần đã thể hiện sự gắn bó với dân tộc trong mỗi bước ngoặt của lịch sử và nổi bật lên ở mỗi bước ngoặt lịch sử đã qua, trở thành nhất quán và truyền thống rất đáng tự hào không chỉ riêng cho các Tăng Ni, và những ai là Phật tử.
Người nhắc con người hãy biết nhìn và biết yêu những cảnh quan đất nước mình, ở dân tộc nào cũng vậy, đều là các nhà thơ. Tổ quốc là gì? Đã có một bài viết trong những năm còn chống Mỹ ở Hà Nội – Bài tùy bút Ngắm sâu Hà Nội, nhớ mẹ Sài Gòn – tôi có đặt ra câu hỏi ấy và trả lời: ” Tổ quốc không phải là núi sông hùng vĩ chung chung. Một tiếng ếch kêu trong thơ Tú Xương làm cho lòng ta có những phút giây xúc động bàng hoàng, ấy là Tổ quốc.” Tôi đến chùa Già Lam sau mỗi chuyến đi thực tế sáng tác các địa phương xa về là tìm đến bên cạnh một vi Hòa thượng tôi kính trọng còn là một tâm hồn thơ tôi yêu. Và lần nào cũng vậy, vị cao Tăng này hoan hỷ tiếp tôi, tiếp một nhà thơ không phải đọc thơ cho nhau nghe đâu mà với những câu chuyện dân gian rất “đời”.Một kiến thức dân gian của một người Việt Nam chỉ thật sự sống trong lòng dân tộc mới có được. Tôi học được ở thấy Trí Thủ cách kể chuyện dân gian và nét hóm hỉnh khi kể. Nhưng có lẽ trước hết và cuối cùng là nổi bật tính triết học khái quát đằng sau mỗi câu chuyện nhà sư ấy muốn gởi gấm răn dạy con người.Vẫn câu chuyện ấy thôi chúng ta nghe có thú vị riêng: thú vị của một người kể mang lại.
Tôi cứ nghĩ về cái “đắc đạo”, cái “hạnh tu” mà Thầy đạt được phải chăng là Thầy không để mất tính cách tâm hồn dân tộc khi chọn đạo Phật cho lẽ sống suốt dời mình.
Lần nghe tôi giới thiệu nhà sử họcĐào Duy Anh và nhà kiến trúc Nguyễn Cao Luyện mới ở Hà Nội vào, Thầy đã nhắnrinh Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm và Nguyễn Văn Hàm trong tờ Giác Ngộ mời bằng được “khách quí” – chữ củaThầy – lên chùa Già Lam và ra tận sân trước rước đón. Trong bữa “thụ trai” ở chùn Già Lam hôm ấy ngồi với ba nhà thức giả của đất nước mới ngoài 70 tuổi mới làm quen nhau, tuy đã nghe tên và ngưỡng mộ nhau từ lâu, tôi bấm tay anh Võ Đình Cường, nói nhỏ: “Nhà sư trẻ và vui không kém”. Chữ trẻ ở đây tôi muốn nói tâm hồn đầy thơ, tâm hồn rất giản dị trong tiếp xúc qua câu chuyện hàn huyên, không khách khí. Một vị caoTăng đang trẻ lại với tâm hồn phơi phới lòng tin vào tiền đồ của Phật giáo Việt Nam đã mở ra một trang mới cùng Tổ quốc trong vận hội mới đang hứa hẹn sẽ đi xa.
TP Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 4 năm1984
Hòa thượng quy Tây quá vội vàng,
Lòng con hồi hộp nỗi lo toan.
Chiếc thuyền Giáo hội sang tay lái.
Ngọn đuốc canh tân sắp mở màn.
Tiếng trống ngàn xưa im vắng lặng,
Câu kinh hiện tại điệu hòa vang.
Từ đây Pháp hội đâu còn thấy,
Hình bóng không trung khắp nẻo đàng.
Hòa thượng quy Tây quá vội vàng,
Trời Nam tràn ngập nỗi buồn than.
Già Lam ánh sáng lu mờ bóng,
Hải Đức chuông linh vắng lặng trang.
Biển giác xôn xao thuyền dậy sóng,
Non linh mây phủ cảnh mơ màng.
Phái chăng quá biết đời là mộng,
Phô diễn vô thường cuộc thế gian.
Thích nữ ĐÀM HƯƠNG
(Phan Rang)
TINH MINH
Cẩn niệm
VIẾT về Ôn Già Lam thật khó, khó vì tự nhận thấy mình là đàn con em hậu học, gần gũi với Ôn chưa được bao nhiêu, vả lại nhân cách và đạo phong của Ôn rực rỡ quá; các bậc huynh trưởng tôn túc được Ôn dưỡng dục hai ba mươi năm còn không dám đặt bút thành văn, huống nữa là mình. Nhưng không viết vào dịp đặc san kỷ yếu này thì biết bao giờ mới bày tỏ được chút tình nồng ấm thiêng liêng mà Ôn đã dành cho mình qua bao năm tháng. Nghĩ đi nghĩ lại tôi mạnh dạn ghi lại đây đôi điều mắt thấy tai nghe, gọi là niệm chút ân tình dâng Ôn nhân ngày húy ky.
Hồi còn ở Già Lam có lẽ tôi là người duy nhất cạo tóc cho Ôn, đôi lúc bận Phật sự, Ôn phải cạo tóc lúc bảy giờ tối để kịp sám hối, hoặc bốn giờ khuya để kịp Bố Tát. Mỗi lần cạo tóc cho Ôn là tôi rất mực cẩn trọng, chỉ được phép cạo nhẹ một đường dài từ trên xuống dưới, nhúng dao lam vào thau nước cho hết tóc rồi cạo qua đường khác, không dám nhấp nhấp, nhấp là có thể chảy máu ngay. Những mụt ruồi son đỏ mọng to bằng hạt tấm hạt gạo rải rác nhô lên khắp đầu. Thường thì tôi đứng trịnh trọng, nhẹ nhàng im lặng cạo tóc cạo mặt Ôn rồi xuống để Ôn tự cạo râu. Một hôm, trong lúc cạo tóc Ôn hỏi:
– Đầu tui thế nào, có méo không?
– Dạ đầu Ôn tròn và đẹp lắm, tôi đáp. Con thấy da đầu của người ta đa số là sạm nắng, còn Ôn thì đỏ au hà. Nhất là mụt ruồi son nhiều lắm. Con không dám nói chuyện trong lúc cạo là vậy đó.
Bỗng dưng Ôn trầm giọng, niệm:
Nam mô A Di Đà Phật
Con vào dạ mạ đi tu.
Có lẽ Ôn đang nghĩ đến ân đức sinh thành của người mẹ hiền đã baonăm xa cách. Thảo nào có lần Ôn đã từ chối tham dự Hội nghi Phật giáo thế giới được tổ chức tại Nhật. Trong cuộc họp chúng, Ôn nói:” Phụ mẫu tại đường bất khả viễn du”. Hình như năm ấy Ôn đã quá lục tuần, thân mẫu của Ôn cũng đã ngoài tám mươi . Ôn không dám đi xa, sợ mẹ già có bề gì, không có Ôn bên cạnh. Ôn thương mẹ như thế đó. Ai bảo “Cắt ái từ thân” là hết?.Lòng hiếu thảo và nhân cách tuyệt vời của Ôn đã để lại trong ta những bài học vô cùng thâm diệu. Ôn thường dạy: “ Các ông học Phật mà không đọc sách Nho, nhất là bộ Luận ngữ, Đạo đức kinh, Nam Hoa kinh là thiếu sót”.
Phải chăng nhờ tinh thông Nho Lão Thích mà tâm hồn Ôn lúc nào cũng phóng khoáng, nhẹ nhàng, tươi mát.
Tôi nhớ có lần được Ôn cho đi Tây Ninh đặt bàn ghế cho ký nhi viện và tham quan tòa Thánh. Gần đến chợ Long Hoa, xe chạy từ từ, bỗng dưng Ôn bảo chú Thu dừng lại. Không biết Ôn định làm gì, đoạn thấy Ôn xuống xe và đi thẳng lại chỗ bà cụ ngồi co ro trong chiếc áo chằm nhăn nheo nhiều màu sắc với chiếc nón cời tơi tả trên đầu.
Trước mặt cụ là một cái lồng ọp ẹp nhốt ba con gà ri to bằng nắm tay, lông lá xơ xác. Thấy Ôn tiến đến, bà cụ lom khom đứng dậy, chấp tay xá xá và niệm Mô Phật, Mô Phật. Có lẽ bà cụ theo đạo Phật chứ không phải theo đạo Cao Đài. Ôn chỉ tay vào lồng gà hỏi : Bà bán bao nhiêu? Bà cụ chấp tay xá xá, miệng ấp úng không nói nên lời. Những người xung quanh im lặng nhìn Ôn với ánh mắt chứa đầy thiện cảm. Có lẽ họ ngạc nhiên lắm. Ai đời một Sư ông như vậy mà đi mua gà, lại mua ba con gà cù rụ sắp toi nữa chứ? Thấy bà cụ không nói, tôi sợ bà không hiểu phải xưng hô như thế nào nên không dám thưa, tôi đỡ lời:”Cụ bán bao nhiêu? Sư ông mua thật đấy”. Cái miệng móm chút xíu không còn một cái răng với hai vệt trầu đỏ tươi dính hai bên mép cười chúm chím trong rất hiền lành và rất tội nghiệp. Bà cụ xoa xoa hai tay nói: “Xin Sư ông cho sáu chục”. Ôn mở bóp đưa bà một trăm. Bà lại chắp tay xá xá. Tôi xách lồng gà chào bà, theo Ôn lên xe và nghe sau lưng có tiếng vọng lại: “Bà có phước đấy! Sư ông mua giúp cho bà đấy.” Có lẻ bấy giờ bà cụ là người hạnh phúc nhất đời.
Đấy tâm hồn của Ôn là vậy đấy! Thấy việc gì phải là làm. Động lòng thương cảm là làm. Làm với thái độ ung dung tự tại, vô danh vô tướng, vô trụ vô cầu, mặc cho ai nghĩ sao cũng được.
Ngồi trên xe tôi tự hỏi: “Tại sao chú Thu và mình không thấy bà cụ. Đúng là thứ mã tử lục tặc, ngồi ngó trời ngó đất chứ có ngó gì đến người nghèo khổ!”
Cách đây ba bốn năm, Ôn có nuôi một cặp hoàng yến, chúng sanh được ba con chim con rất đẹp, Ôn thích lắm. Một hôm, khoảng ba giờ chiều, tôi về Già Lam hầu Ôn, vừa đến cửa đã thấy Ôn ngồi trầm ngâm ngắm chim mẹ mớm mồi cho chim con. Tôi xá Ôn với câu:”Bạch Ôn con mới đến”. Không quay lại, Ôn nói:
– Nhìn kìa! chim mẹ khẩn trương nuôi con từ năm giờ sáng.
– Nhìn Ôn ngắm gia đình nhà chim nuôi con, con lại nhớ đến lời ca “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình”…
– Chứ răng! Thập nguyệt hoài thai, tam niên nhũ bộ, thử ân thử đức, phấn cốt nan thù. Ôn nói với giọng điệu như thán. Đoạn Ôn dạy: “Chim còn thương con như vậy huống nữa là người. Cha mẹ nào mà chẳng thương con. Các ông ở đời đừng bao giờ nói đến cái tệ, cái xấu của con cái người khác, phải lựa lời mà nói. Mình biết con mình ăn trộm, hổn láo, nhưng không muốn cho ai nói con mình là kẻ ăn trộm, hổn láo”. Tâm lượng của Ôn vô cùng nhân hậu. Đúng là:
Hiếm thất ai ở đời,
Biết tự chế khiêm tốn,
Tránh nói lời thương tổn
Như ngựa hiền tránh roi.
Ôn còn khiêm tốn với cả chúng Tăng. Anh em nào có lỗi, ôn kêu dạy bằng những lời rất chân tình thắm thiết. Ôn thương chúng Tăng như mẹ thương con. Có lần Ôn qui y cho một số Phật tử gần chùa, xong lễ Ôn dạy: “Các Phật tử đã qui y Phật, qui y Pháp, quy y Tăng, nhưng Tăng ở đây đa số còn trẻ, còn đang đi học; nếu thấy các chú đôi lúc thổi sáo, đánh đàn hay ca hát chi đó các Phật tử bỏ qua cho. Còn trẻ là vậy đó, mai kia lớn lên các chú sẽ nhuần nhuyễn ra”. Các Phật tử đều chấp tay cúi đầu im lặng, một sự im lặng hoan hỷ và thương kính Ôn vô vàn.
Kính lạy Ôn, Ôn thường dạy chúng con:
Khó thay sống khiêm tốn,
Thanh tịnh tâm vô tư
Giản dị đời trong sạch,
Sáng suốt trọn kiếp người.
Nay Ôn không còn nữa. Ôn đã đi hết đoạn đường nhân thế với nhân cách và đạo phong rực rỡ như ánh trăng rằm. Có điều đàn chim hoàng yến của Ôn đa số nay đã tung cánh líu lo mỗi con một hướng, khắp bốn phương trời. Dù cho thế nào chăng nữa thì chúng cũng không bao giờ quên được những hạt đậu hạt mè, cọng rau lá cải, bàn tay e ấp, giọng nói thân thương của người đã bao năm chăm sóc cho đến ngày đủ lông đủ cánh.
Kính dâng Giác linh Hòa thượng THÍCH TRÍ THỦ
Cẩm tú xứ Trung Kiên
Kết tinh bóng dáng hiền
Bao la Người hoàng vĩ
Chí nguyện vượt thần tiên.
Bước vào miền cô lữ,
Trầm tư nghĩa lý thiền,
Bỗng nhiên bừng mắt tuệ
Sáng rỡ đất Thừa Thiên.
Từ ấy đấng thiền sư
Nêu cao nguyện đại từ.
Vân du tam giới mộng
Hóa độ đời huyễn hư
Tay hùng nâng tích trượng,
Dẹp tà giảng Thánh thư.
Bảy mươi dư sương tuyết
Vận chuyển pháp tâm như.
Thiền sư đấng Đại hùng,
Tuệ nhật rạng phương Đông.
Vượt lên đời phi thị,
Xem thường nghĩa có không.
Tùng lâm nêu ấn tích,
Mật hiển hạnh dung thông.
bỗng dưng ngừng xe pháp,
Bước vào cõi chân không
THÍCH THÁI HÒA
PHƯỚC HẢI
…MỘT CỬ CHỈ
Tôi không sao quên được cái lạnh nứt da của mùa Đông xứ Huế. Năm ấy, những năm trước hòa bình lập lại. Cái lạnh mùa đông làm cho những ngôi nhà của Phật Học Đường Báo Quốc vốn đã trống vắng càng thêm thênh thang rộng vắng. Ngôi nhà khách dài rộng thênh thang là nơi dành cho tôi và Hiếu hằng đêm, sau giờ học. Những bộ trường kỷ trơn bóng nhiều đêm đã cám dỗ giấc ngủ say sưa của chung tôi trước giờ báo ngủ. Chúng tôi, đôi lúc “không thèm sợ lạnh” cũng “chẳng thèm sợ muỗi đốt” và đêm nào cũng vậy, chúng tôi như bị cuốn hút trong những cơn ngủ say bất kỳ ở đâu cũng thèm ngủ và chỉ thèm ngủ.
Sau mỗi đêm, khi chuông sáng đổ chúng tôi đều được thức giấc trong những tấm chăn ấm áp quấn từ đầu đến chân. Sau mỗi đêm như thế chúng tôi không khỏi phập phồng lo sợ. Nghĩ bụng, thế nào mình cũng bị rầy vì…cái tính cẩu thả!
Lắm đêm, chúng tôi sợ cái ấm của chăn mền dễ lôi cuốn giấc hôn mê, nên quyết không mang sẵn theo chăn mền, cái ngủ vẫn đến say sưa. Sau những đêm như vậy, chúng tôi lại được thức giấc trong những tấm chăn đầy hơi ấm mà Thầy đã nhịn đập để dành cho chúng tôi. Những lần ấy chúng tôi lại càng lo và lòng tự nhủ với lòng mình là sẽ không để Thầy phải lo lắng cho mình quá như vậy.
Nhưng rồi đâu vẫn vào đấy. Đêm nào sau giờ chỉ tịnh, Thầy cũng đã đến sưởi ấm giấc ngủ chúng tôi bằng bàn tay ấm đầy mình thương của Người…! Giờ đây mỗi lần nhớ lại, tôi càng cảm nhận được cái lớn lao cao cả trong những cử chỉ nhỏ nhặt ấy mà Thầy đã dành cho chúng tôi và cho tất cả. Bao la thay tình thương yêu của Thầy!
…BÁT CHÁO NẤM RƠM
Thường lệ sau giờ công phu chiều, tôi thường hầu Thầy dùng bữa tối. Chiều hôm ấy, từ nhà bếp, tôi nâng bát cháo nóng thơm phức, vừa đi vừa khấp khởi mừng thầm…mừng cho sức khỏe của Thầy – đúng phải bồi dưỡng thế này chứ, ai lại bữa nào cung cháo gạo trắng với muối tiêu bao giờ! Tôi thầm nghĩ như thế.
Tôi kéo chiếc bàn con đặt bát cháo bên cạnh chiếc ghế nằm đọc báo và đứng vòng tay hầu.
– Bạch Thầy dùng cho nóng, bà Tham Ngô bảo dâng Thầy dùng cho nóng, dạ cháo nấm.
– Chúng con cũng ăn như thế cả chứ? Tôi ngập ngừng chưa kịp trả lời, như đã đọc được ý, Thầy khẽ nói:
– Đã bảo chỉ cần ít cọng rau muống với cái bánh tráng nhúng nước là được rồi. Đại chúng dùng gì Thầy ăn nấy là được
– Dạ con đã bảo thế với các bà. Bà Tham Ngô bảo cứ mang lên, Thầy la rầy gì bà ấy chịu…
– Tôi vẫn đứng chờ đợi, không dám nói gì thêm nữa. Thầy với tay lấy tờ báo đọc tiếp:
– Khánh, con mang xuống đi, Thầy, chú nào đau cho họ dùng. Hiểu ý Thầy, tôi lặng lẽ bưng bát cháo nấm xuống và đổi lấy một bát cháo trắng, như bao nhiêu khẩu phần khác) mang lên…
…THẦY MỚI THẤY… THIẾU…
Đêm mệ nằm xuống, trút hơi thở cuối cùng cũng là đêm Thầy trò tâm sự lâu nhất kể từ khi tôi trưởng thành và đi làm việc. Vẫn cái không khí thầy trò hồi tôi còn là chú tiểu để chỏm. Thầy ngồi trên chiếc giường con đặt giữa sân, nhìn thẳng vào là chiếc quan tài chưa sơn và thi hài của mệ còn phủ chiếc mền quang minh màu vàng, đợi giờ nhập quan.
Trời càng về khuya, sương xuống càng lạnh. Thầy sai tôi đun nước, châm trà. Bầu trời thưa thớt sao, càng làm tăng sự sâu lắng của đêm.
Thầy kể cho tôi nghe về cuộc đời của Mệ. Những ngày trước kháng chiến. Những đức tính của một người mẹ, những bở thích của Mệ lúc tuổi già v.v…Thầy kể, giọng Thầy lúc trầm lúc bổng, lúc xa vắng, lúc lắng đọng và có lúc tôi nghe thấy có chút gì nghèn nghẹn! Có lúc Thầy ngừng lại rất lâu tôi ngỡ Thầy đã mệt và trình Thầy đi nghỉ. Thầy vẫn im lặng. Rồi Thầy lại kể tiếp, tôi nghe như một nỗi lòng, như một tâm sự… mà nào tôi có thể chia xẻ được gì cho cam! Tôi chỉ nghe và thỉnh thoảng chêm vào một vài tiếng “dạ”.
Thầy trầm ngâm trong đêm lắng. Có lúc hai thầy trò như ngồi bất động, mỗi người một dòng cảm nghĩ riêng! Thực ra thì tôi đang lắng đợi giọng Thầy kể.
Trời gần sáng. Trong chùa đã có tiếng động của người vừa thức dậy. Một giọng tằng hắng như xua hết suy tư còn lắng đọng, Thầy khẻ gọi, tiếng Thầy như lắng hẳn xuống:
– Khánh à!
– Dạ!
– Thầy, giờ phút này Thầy mới thấy Thầy… thiếu… với Mệ. Sau tuần thứ nhất của Mệ, có lẽ Thầy lại phải vào Sài Gòn. Tôi cũng cảm giác nghèn nghẹn ở cổ họng. Giọng Thầy như xa vắng loãng dần trong bầu trời khuya, cùng lúc ấy chuông sáng cũng vừa đổ.
MỘT HÀNH ĐỘNG…
MỘT TẤM LÒNG
Bóng chiếu hè đổ dài trên sườn núi. Trên con đường sỏi hai chiếc xe đạp mang hai bóng áo nâu cùng trải dài trên mặt đường. Trời vẫn còn oi bức. Hai người xuống xe dắt bộ qua hẽm dốc xuống nhà tôi. Từ xa tôi cũng đoán ra bóng hình Thầy Sự (thuở ấy thường gọi Ôn Báo Quốc như thế) tôi trốn ra đằng sau nhà. Bụng nghĩ mùa an cư mà hai Thầy vào nhà mình làm gì chứ, hẳn là chuyện con thỏ! Nghĩ thế tôi càng trốn kỹ, nghe ngóng.
– Khánh đâu rồi? Bú mẹ xong chưa? Định trốn luôn hay sao đó? Thầy vào chở ra chùa đây.
– Hai chân tôi như lún sâu xuống đất – Ra chùa? Rồi bị rầy cái tội trốn về! Con thỏ bị chết. Thế nào cũng không khỏi đòn… Tôi suy nghĩ rất lung, tim tôi như muốn vọt ra khỏi lồng ngực quá nhỏ bé.
– Nguyên là chiều mùa hè năm ấy, lâu lắm rồi, một bà thí chủ mang đến chùa một con thỏ để xin lễ phóng sinh. Tôi có phận sự tiếp và không may, vô ý để cho chú chó rình, chộp mất. Con thỏ chết một cánh thê thảm.
– Làm sao? Con thỏ chưa được quy y. Còn bà thí chủ? Bà ấy sẽ lấy gì để xin lễ phóng sanh? …Thế này thì chắc chắn phải đòn – bao nhiêu là suy nghĩ dồn dập – Trốn thôi! Lại có dịp cho mình, ở đây buồn quá!
Ngoài tôi và chú tiểu Hiếu ra, cảnh chùa im lặng. Đại chúng đang tụng kinh khóa chiều. Tôi trông chừng các Thầy đang còn giữa buổi kinh. Lấy hết bình tĩnh tôi vào điện Phật hầu các Thầy một tuần trà nữa. Xong đâu đấy, tôi lặng lẽ xách chiếc tráp bằng mây trốn về nhà. Mặt trời còn cao và mãi đến tắt nắng tôi mới đến nhà
Cả nhà cũng tưởng tôi được phép về thăm. Tôi thì như thoát nạn, nên càng hí hửng vui chơi. Cho mãi đến chiều hôm sau thì Thầy Sự và Thầy Viên Giác đi xe đạp vào. Lòng tôi cứ ngỡ là hai Thầy vào bắt thường con thỏ. Hai Thầy gọi mãi, tôi khó nhọc lắm mới rút được đôi chân ra khỏi chỗ trốn và nặng nhọc đến trước mặt hai Thầy, mắt tôi như dán chặt vào hai ngót chân cái cứ dí mãi xuống đất.
– Sao, bây giờ ra chưa? Lên Thầy chở ra. Thầy Sự nhỏ nhẹ bảo và tiến lại xoa đầu tôi.
Tôi như bị lún sâu xuống đất lại được bật lên nhẹ nhỏm. Bao nhiêu suy nghĩ lo sợ đã được đánh tan. Tôi ngoan ngoãn vào xách cái tráp mây theo hai Thầy trở lại chùa.Thầy Sự nói:
-Lên xe Thầy chở ra. Thỏ bị chó cắn chết thì thôi, có phải con giết đâu mà sợ. Thầy Đốc (ngày trước gọi Ôn Già Lam như thế) bảo vào chở con đây. Tội của con là đi không xin phép đó.
Sau câu nói đầy tình thương và tiếng bánh xe lăn sột soạt trên đường sỏi, lòng tôi nhẹ hơn. Bây giờ, mỗi lần nghĩ đến, khóe mắt tôi nóng lên, như lúc tôi ngồi sau yên chở, nước mắt ứa lên vì cảm động, sung sướng trước một tấm lòng, một hành động!
PHÁP ÂM ĐỒNG VỌNG
Thời gian thấm thoát trôi qua, nay đã đến ngày giỗ lần thứ 15 của Ôn. Tôi muốn viết vài dòng để ghi lại những kỷ niệm cao đẹp qua bao tháng năm được may mắn gần Ôn, nghe lời Ôn dạy, ngắm nhìn hình bóng uy nghiêm của Ôn, tất cả như những dấu ấn thiêng liêng, in đậm vào tâm não của tôi từ thời thơ ấu. Nhưng mỗi lần cầm bút định viết, rồi lại bỏ bút. Tôi càng thấy khó biết bao nhiêu thì càng cảm thông trường hợp ngài Thần Tú định dâng kệ lên Ngũ Tổ bấy nhiêu. Đã bao nhiêu lần Thần Tú định dâng kệ lên Ngũ Tổ, nhưng mỗi lần tới cửa thì sợ toát mồ hôi, lại bỏ cuộc cuối cùng đành đánh bạo viết bài kệ của mình lên vách chùa.
Giờ đây ngồi hồi tưởng lại những năm tháng sống ở Phật Học Viện Nha Trang sao mà đẹp quá! Xiết bao những hình ảnh thân thương, những kỷ niệm êm đềm. Tôi nhớ mãi một Giáo Sư Bồ Đề Nha trang, sau giờ dạy học, ông ghé lên thăm viện, đã bày tỏ nỗi lòng : “ Mỗi lần lên đồi Trại Thủy, thăm Phật Học Viện, tôi cảm thấy như trút bỏ bao lớp bụi hồng, lòng nhẹ nhỏm lâng lâng thoát tục”. Một cảnh trí khang trang như vậy không phải bỗng nhiên có được, hẳn phải tốn bao nhiêu tâm lực, mà có lẽ công lao của Ôn không ít. Người xưa đã từng bảo:
“Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh
(Núi không cần cao, có tiên ở thì nổi tiếng,
Đầm chẳng cần sâu, có rồng ẩn thì linh thiêng)
Cảnh trí tân kỳ phần lớn là do bàn tay con người kiến tạo. Không những Ôn lo xây dựng các ngôi tịnh thất để làm tôn nghiêm cảnh trí Già lam, mà Ôn còn để tâm chăm sóc, uốn nắn từng người tùy theo từng hoàn cảnh. Năm 1958 vào dịp tết, tôi xin phép Ôn về thăm nhà, Ôn dạy: “Người xuất gia là mang hoài bảo siêu việt, muốn cất bước đến một chân trời cao rộng; nay ông đã cắt ái từ thân, thì không nên quyến luyến nhiều với tình cảm gia đình, mà phải dốc tâm cầu đạo giải thoát. Vì duyên trần thì dễ nhiễm, mà chí đạo thực khó thành”. Qua lời Ôn dạy, tôi chỉ biết cúi đầu vâng lệnh, ở lại viện ăn tết. Một cái tết tuy cô liêu, đạm bạc, nhưng có thì giờ để đọc sách, học hỏi; sau này kiểm điểm lại thì thấy mình được ơn ích biết bao!
Một hôm Ôn bảo các học tăng dịch và bình luận câu: “Lão ô bách tuế, bất như phượng hoàng sơ sinh” (Chim quạ dù sống trăm tuổi cũng không bằng phượng hoàng mới sinh). Nếu ai nói đúng ý, Ôn sẽ thưởng. Lúc đó anh em đang bận thi, và sợ nói không đúng ý Ôn, nên không ai làm. Nhưng nào ngờ Ôn có ý ngầm, muốn ví anh em như phượng hoàng con. Đó là một hình thức cổ vũ tinh thần thâm trầm và tế nhị.
Bấy giờ hầu hết học Tăng đều sang học bên trường Bồ Đề. Bửa nọ đạo hữu trưởng ban quản trị trường đi khắp các lớp để nhắc nhở học sinh, trong đó có cả học Tăng, đôi chỗ ông nói quá lời, anh em hơi buồn, định nghỉ một tuần rồi đi học lại. Văn phòng trường thấy vắng học Tăng, gọi điện thoại báo tin Ôn biết. Ôn bèn kêu tất cả xuống, khiển trách khá nặng, mấy chú điệu nhỏ còn bị ăn đòn. Ôn nói: “Nhẫn là vật báu vô giá của mình, không nhẫn thì tai họa không lường trước được .(Nhẫn thị thân chi bảo, bất nhẫn thân chi ương). Nay người ta ban cho mình một cơ hội để thực hành hạnh nhẫn mà không biết ơn họ, các ông còn định nghỉ học nghĩa là sao? Ngày mai tất cả qua xin lỗi văn phòng và tiếp tục học lại”. Anh em chúng tôi đều răm rắp tuân lời, nhưng lòng vẫn thấy hơi buồn buồn. Có lẽ Ôn cũng nhận ra cách xử sự của đạo hữu kia có chỗ chưa phải, nhưng Ôn vẫn giữ thái độ kính trọng vị ấy thỉ chung như nhất. Thế mới biết, đối với học trò mình, Ôn tỏ ra nghiêm khắc, mà đối với người ngoài thì độ lượng bao dung. Đó là kinh nghiệm của người đã thấu triệt tình đời. Điệu này đến lúc đi dạy học tôi mới nhận ra. Nếu đặt địa vị mình vào trường hợp của Ôn, thì mình cũng xử sự như vậy. Càng nghĩ lại, tôi càng thương kính và cảm phục. Thảo nào ca dao của ta chẳng từng bảo:
“Đường dài mới biết ngựa hay
Nuôi con mới biết ân rày mẹ cha” .
Và phương Tây có câu danh ngôn đầy ý nghĩa:”Lúc 20 tuổi con tưởng là con bằng cha. Lúc 25 tuổi con cho là con hơn cha. Nhưng đến lúc 40 tuổi con mới biết chắc chắn là con kém thua cha”.
Cuộc tranh đấu đòi tự do tín ngưỡng của Phật giáo năm 1963, vào những giai đoạn quá gay go, có kẻ muốn ngã lòng. Đến khi cuộc tranh đấu thành công, chính Ôn lại mở lượng khoan dung, chở che cho những người đã ngã lòng bỏ cuộc. Thế mới biết tấm lòng của Ôn bao la chừng nào! Liên tưởng đến sự kiện này, tôi nhớ lại một câu đối tại Phật Học Viện Nha Trang vào dịp tết, nói về hạnh nguyện của Đức Từ thị Di Lặc:
“Đại dỗ năng dung, dung thế gian nan dung chi sự” (Bụng lớn hay dung, dung những việc khó dung trong thiên hạ). Phải chăng Ôn noi theo hạnh nguyện từ bi của đức Di Lặc? Mỗi lần đi dâu xa trở về Phật học viện, hễ thấy những cành cây khô thì Ôn dạy anh em chúng tôi chặt bỏ; và bảo chúng tôi gánh nước tưới cây héo úa xung quanh chùa. Ôn bảo: “Cảnh vật bên ngoài thường ảnh hưởng đến nội tâm chúng ta, và ngược lại, nội tâm
chúng ta cũng tác động đến ngoại cảnh không ít. Thế nên:
“Ngoài trang nghiêm sự tưởng hãy tu.
Trong tự tại kính lòng hằng đọc”
Có những lúc khan hiếm củi anh em chúng tôi phải cưa cây để đốt. Thấy thế, Ôn nói: “quân tử bất khí” (Người quân tử không giống như những dụng cụ) Bởi vì các thứ dụng cụ chỉ dùng được một việc. Trái lại người quân tử thì phải đa năng đa dụng, dùng tài năng của mình làm nhiều điều lợi ích khác nhau. Thực là một bài học tuy ngắn mà rất thâm thúy.
Những lời dạy thống thiết nhất in đậm vào tâm hồn tôi và mãi mãi không quên là những lời Ôn dạy năm 1968, tại Già Lam, khi tôi xin phép từ gia Ôn về phụ trách Bồ Đề Nha Trang. Đêm đó Ôn tâm tình khá lâu, nói về kinh nghiệm sống, làm việc, tiếp xúc với đời, tránh những cạm bẫy, làm thế nào để giữ vững đạo tâm, không quên chánh niệm. Đại khái có thể tóm tắt vào câu: “Tục giới nặng mê lầm, tà chú bủa tung nghìn phép đọa; chân tu hằng tinh tấn, chính tâm thu gọn một lần siêu”. Mỗi lần gặp những hoàn cảnh trắc trở, nhớ lại lời Ôn, tôi như được tiếp thêm sức để vượt qua thử thách. Ngày xưa khi Phật còn tại thế, các đại đệ tử thường tán thán Phật: “Con từ miệng Phật sinh ra, từ pháp Phật trưởng thành”. Đại ý bảo: Nhờ Phật mà mình có trí tuệ. Giờ đây Đức Thế Tôn không còn nữa, người xuất gia phần lớn nương vào nhân cách và đức độ của Thầy – một bài học sống – để trưởng dưỡng pháp thân, nuôi lớn huệ mạng. Trên hành trình luân hồi vô tận, chúng ta gặp nhau đây, nào phải sự ngẫu nhiên, biết đâu chẳng là:
“Thầy xưa bao thưở vẫn thầy nay?”
Bình sinh Ôn rất thích trúc, và thường ca ngợi đức tính của trúc:
“ Vị xuất địa thời tiên hửu tiết
Chí lăng vân xứ cánh vô tâm”
(Chưa ra khỏi đất đà có đốt,
Cao vút tầng mây vẫn rỗng lòng)
Và bài thơ xuân của Ôn năm l963 có câu:
“Đốt nén hương nguyện cầu sám hối,
Trước sau giữ trọn chữ không tâm”
Phải chăng hạnh nguyện vô tâm của Ôn đã biến thành một đức tính tự nhiên.
Trên trần thế bộn bề, nhiều khi phải tùy nghi phương tiện để chu toàn Phật sự, nhưng vẫn không rời trí tuệ và lòng bi mẫn . Dốc hết tâm lực làm những Phật sự cần thiết, miễn là lợi ích cho nhiều người, còn thành hay bại ít có quan tâm. Ôn thường nhắc các phật tử: “Quý vị quy y tôi, đừng nghĩ chỉ có tôi là Thầy mình, mà phải xem chư Tăng ai cũng là bổn sư của mình, hết lòng tôn kính và phụng sự”. Có lẽ do thái độ vô ngã, vô tâm này mà các đệ tử càng ngưỡng mộ khâm phục, và rất hãnh diện được làm đệ tử Ôn.
Trong hàng đệ tử, nếu ai có lổi lầm, Ôn thương gọi về răn bảo, động viên bằng những lời lẽ ôn tồn, cử chỉ thâm tình, nhưng không kém vẻ uy nghiêm, khiến cho người phạm lỗi càng kính, càng sợ và khắc cốt ghi lòng mãi mãi những lời vàng ngọc. Mỗi lần đọc đến đoạn lịch sử nói về tình Thầy trò ông Chu Văn An, không lần nào là tôi không xúc động đến rơi nước mắt. Trong hàng môn sinh của ông có người làm đến Hành khiển (Chức tương đương với Tể tướng); thế mà mỗi lần về thăm Thầy đều đảnh lễ dưới giường. Nếu ai có lỗi ông thẳng thắn khiển trách, khiến người phạm lỗi không những không dám có một ý nghĩ nào buồn phiền mà còn lấy làm sung sướng, hãnh diện. Ôi! cái nhân cách và đức độ của Thầy đã cảm hóa học trò đến thế đấy!
Dòng đời trôi chảy, lịch sử biến thiên, cuộc sống tu hành có những lúc gặp nhiều trắc trở; chúng ta tưởng dường như không vượt nổi; nhưng Ôn dạy:”Khó hay dễ là tại mình. Vả lại, trên mảnh đất phì nhiêu chưa hẳn đã là nơi thích hợp cho cây đạo đơm hoa kết trái” Lời dạy tuy đơn sơ nhưng đầy ý nghĩa.
Hồi tưởng lại buổi sáng hôm rước kim quan của Ôn nhập bảo tháp, trong lúc thất chúng đệ tử ngậm ngùi, thương tiếc, tiễn đưa Ôn lần cuối, thì bầu trời Sài Gòn phủ một màu tang, trên vòm mây xám rơi xuống những hạt mưa lấm tấm. Phải chăng “Sơn hà bi lệ”, cỏ cây cũng thương tiếc tiễn đưa Người!
Giờ đây, mỗi lần về lại chùa Già Lam, tuy không còn được diễm phúc chiêm ngưỡng thân tướng uy nghiêm của Ôn nhưng từ dung của Ôn như còn ẩn hiện đó đây, và pháp âm của Ôn vẫn đồng vọng bất tuyệt
Kính thành cẩn niệm,
Đệ tử Phước Sơn
Hòa Thượng THÍCH TRÍ THỦ
Ba mươi năm non sông chia cách
Mặc dù xa, tin tức vẫn gần
Thư đi thơ lại ân cần
Lòng trong vẫn giữ mười phân vẹn mười
Con tạo hóa ghen người chi rứa
Đã gần nhau sao nở xa nhau
Rước đi người bạn tâm giao
Để ai ngậm tủi nuốt sầu vì ai!
Người đã đi về nơi Cực lạc
Để riêng mình gánh vác việc đời
Nhớ nhau trông đất trông trời
Ngắm sông nhìn núi Ở nơi Ta bà
Nhớ những lúc Ba La hội diện
Dưới Phật đài tâm niệm nguyện cầu
Nhớ khi vào Hạ cùng nhau
Kinh Lăng Nghiêm tụng ngẫm sâu luận bàn
Nhớ những lúc Ngọ Môn vãng cảnh
Chín thần công miệng nghếch lên trời
Ngâm thơ ngẫm nghĩ sự đời
Chiến trường vận động vì ai bây giờ.
Nhớ một hôm Ba La gặp bão
Trước sân chùa gió gãy ngọn tùng .
Sư cười nói chuyện bông lông
“Bác xem thân thế cây tùng thương thay”
Tôi ứng khẩu một bài thơ mới
Trách hóa công “sao khéo thày lay”
Muốn đem việc lớn trao tay
Nên gây gian khổ thử tài một phen
Lại nhớ khi chơi thuyền Cửa Kiếng
Cùng bạn hiền vãng cảnh Thiên Thai
Leo lên hòn núi Bồng Lai
Thấy bà Thánh Mẫu mặt mày đẹp không?
Nhìn Hòn Lố cửa sông trụ cột
Xem bầy âu lăn lúc giữa dòng
Nhìn ra đại hải mênh mông
Thuyền ai hụp lặn oai hùng ngoài khơi.
Quên sao được những thời đen tối
Giặc truy lùng, tôi phải tránh xa
Bỏ vợ con bỏ cửa nhà
Nhờ tay tế độ thiết tha giúp dùm
Quên sao được khi con vượt tuyến
Ra Bắc Hà tìm kiếm thăm cha
Tiên sinh nghĩ đến bạn già
Gửi thư thăm hỏi ngâm nga dòng dài
Quên sao được khi người nội chính
Nhớ thương chồng mang bịnh vào tim
Chồng về chưa được chu niên
Bỗng dưng trở bước quy tiên thoát trần
Thầy thương tình đem quàng tu viện
Đặt trai đàng tụng niệm cầu siêu
Đưa về nghĩa địa Huỳnh Quang
Đắp mồ trung hậu đảm đang trọn đời.
Ngày Bắc Nam đất trời thống nhất
Tôi với thầy chưa được gặp nhau
Thi thơ trao đổi ra vào
Tình xưa như ngấm tươi màu thêm xinh
Không ghi không chép sao đành
Chép ghi thêm nặng mốí tình nước non
Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm nghĩa bạn vẫn còn trơ trơ
Cuộc Cách Mạng bao la vĩ đại
Mỗi công dân gánh lấy một phần
Thầy đem Hóa Đạo dạy dân
Tôi ra miền Bắc góp phần đấu tranh
Đường hai ngã rõ rành tuy khác
Đến cuối cùng một đích mà thôi
Thương người thương giống thương nòi
Toan đưa thế giới đên nơi hòa bình
Đường đi tới gập ghềnh gian khổ
Nhiều khúc cong khúc khuỷu chơi vơi
Hy sinh vì Đạo vì Đời
Hay vì chống giặc ở nơi sa trường
Đều hồn “bất tử” vinh quang
A Di Đà Phật muôn phương hộ trì
Nam mô A Di Đà Phật.
Huế, ngày 13 tháng 3 năm 1987
(14 âm lịch tháng 2 năm Đinh Mão)
Đạo hữu
Lăng Vân NGUYỄN MẬU TÙNG
Kính bái.
HẢI TÁNH
Hình bóng Ôn là hình bóng của một cây đại thọ che mát chốn Già Lam. Sau khi Ôn nằm xuống, bóng mát ấy không còn nữa. Chúng con bị mưa chan nắng táp, chúng con bùi ngùi xúc động, thao thức, nhớ thương, nheo nhóc, bơ vơ như gà con mất mẹ.
Chúng con không sao quên được nụ cười hỷ xả, ánh mắt bao dung, lời nói hiền hòa, hạnh nguyện cao cả của Ôn đã biểu lộ hằng ngày trước mắt chúng con. Nhân ngày tiểu tường, chúng con xin được phép ghi lạy đôi nét đơn sơ để tưởng nhớ công ơn cao dày mà Ôn đã giáo dưỡng và tác thành cho chúng con.
Kính lạy Ôn, hằng ngày Ôn thức dậy lúc hai giờ khuya, giờ mà chúng con đang mê ngủ. Ôn ngồi uống trà rồi tắm xong lên chánh điện lễ Phật, 108 lạy từ đầu đến cuối không mỏi mệt, Ôn lạy một cách thành kính thiết tha, xướng với giọng thanh thoát trầm hùng. Lạy xong, mồ hôi tẩm ướt, Ôn ra thay áo rồi tiếp tục lên tịnh thất ngồi một mình tụng kinh, trì chú và thiền quán hơn tiếng đồng hồ nửa. Ngày nào cũng như ngày nào, Ôn không bao giờ nghỉ, chỉ trừ khi bệnh nặng dậy không nổi mà thôi. Ở chùa cũng như những ngày đi lo Phật sự các tỉnh, bất cứ ở đâu: Nha Trang, Đà Lạt, Đà Nẵng, Huế, Hà Nội… kể cả những khi ra nước ngoài, nơi nào có điện Phật, đến giờ là Ôn lên chính điện lễ Phật tụng kinh.
Nếp sống tinh cần ấy, Ôn đã thực hành từ lúc còn tuổi trẻ ở Báo Quốc Huế, cho đến gần đây, tuổi già sức yếu, Phật sự đa đoan, 76 tuổi rồi vẫn giữ và có phần tinh cần hơn nữa. Trái lại, chúng con ham ăn mê ngủ, mặc dù Ôn vẫn thường khuyên nhủ.
Khi vào chánh điện lễ Phật Ôn ra sau cùng. Đặc biệt khi vào lễ cũng như khi lễ xong ra, Ôn đều đi nhiễu Phật một vòng. Ôn ra sau cùng vì có nhiều lý do, thứ nhất là theo nguyên tắc mạt vị tiên hành, hai là để Ôn theo dõi xem ai dậy lễ Phật, ai trốn ngủ, ba là Ôn đánh chuông cho các điệu lạy và chỉ vẽ cách lạy, cách đánh tang, đánh mõ nhanh chậm… Trong chúng cũng có người thiếu tinh tấn, dậy trễ vào lạy năm mười lạy sau cùng. Ôn biết việc này nhưng không nở quở trách nặng. Ôn nói:”Có năm mười lạy còn hơn không”
Ai có dịp lễ Phật buổi khuya với Ôn đều thấy cử chỉ này của Ôn khi xướng đến câu:
“Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ Đề,
Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật”.
Ôn đưa hai tay lên quá đầu như đang thề nguyện một điều quan trọng. Những động tác ấy đã ghi đậm nét vào tâm tư chúng con, không làm sao quên được. Thầy Đồng Minh đã có lần tâm tình: “Tôi xúc động và lạnh người khi nghe Ôn xướng câu ấy với hai tay đưa cao lên một cách cương quyết!”
Lễ Phật tụng kinh xong, Ôn thay áo ra sân đi một vòng cầm vòi tưới cây. Ôn thường ria nước lên lá lên cành cho sạch bụi cho cây được xinh mát. Sau những khi xa vắng một vài tuần về thấy cành lá cây bám đầy bụi, Ôn than: “Tội nghiệp, mình đi vắng không ai tắm rửa, để cây đầy bụi bặm”. Ôn thương yêu đến cây cỏ như vậy đó. Mặc dù trong chúng đã chia người tưới cây, những anh em chỉ biết tưới dưới gốc, còn Ôn thì không những tắm rửa cho cây tươi mát, lại còn lặt lá tỉa cành. Ôn thường cầm gậy đi quanh đập, móc lá khô trên cây xuống.
Tưới cây xong, Ôn cho cá ăn. Ngồi trên miệng hồ trước chánh điện, Ôn ngắt rau bẻ từng miếng bánh mì, miếng chuối chín, thả xuống hồ cho cá, vừa cho chúng ăn vừa lâm râm chú nguyện. Những con cá dưới hồ thấy bóng Ôn, chúng tụ nhau lại trước mặt Ôn tung tăng bơi lội vui mừng thân thiết
Cho cá ăn xong, Ôn về phòng dùng bữa điểm tâm. Bữa điểm tâm của ôn rất đơn sơ đạm bạc, có nhiều hôm Ôn chỉ dùng một chén cháo trắng hoặc một miếng đậu khuôn luộc chấm với muối tiêu. Ôn bảo: “Nhiều người rất đói khổ, mình nhờ Phật được thế này là quí lắm rồi!”
Điểm tâm xong là đến giờ làm việc chính thức của Ôn trong ngày như: đi hội họp dạy học, dịch Kinh luật, giải quyết các văn thư giấy tờ của Giáo hội, có khi rảnh thì nằm đưa võng đọc sách.
Sau giờ nghỉ trưa Ôn cho chim ăn, dạy con nhồng niệm Phật. Ôn có mấy con chim Hoàng yến. Cho chim ăn, Ôn quan sát thấy chim mẹ mớm mồi cho chim con, dọn ổ con nằm, ấp cho con ngủ, Ôn bảo: “Nếu người nào không biết thương con và không biết hiếu thảo với cha mẹ thì thua loài vật xa ” Cho chim nhồng ăn Ôn bảo: “Ô nhồng! Ráng niệm Phật đi con, để sau khi bỏ thân này được sanh về Tịnh độ!”. Nhồng nói rất rõ nhiều thứ tiếng như “Ai đó”, “Chào khách”,”Ôi nhồng”,“Hải ơi”, nhưng tiếng “Mô Phật” Ôn đã dạy rất lâu và cố dạy mà nhồng vẫn không nói được. Ôn đã thu băng và mở máy cho nó nghe mỗi ngày: Hôm ấy, Ôn ngồi nhắc đi nhắc lại hoài tiếng “Mô Phật” để tập cho nhồng nói, bỗng nhiên nó nói “Trời ơi”. Ôn thấy nản và bảo “Con chim nhồng này nghiệp nặng quá, không có chủng tử PHẬT”
Ôn có lòng thương bao la rộng lớn trang trải khắp tất cả, không riêng gì Tăng Ni Phật tử mà đến cả cỏ cây loài vật.
Ôn sống rất giản dị, vui tính và hiếu khách. Ai đến với Ôn, cần gì Ôn cũng hoan hỷ giúp đỡ. Do đó, những kỷ vật, những đồ dùng của Ôn rất ít. Y áo vài ba bộ đơn sơ, những thứ gì đẹp ôn biếu tặng hết, kể cả tiền của cũng không tích trữ. Đối với những khách quý khác, tùy theo cá tính của mỗi người, Ôn đều tiếp đón niềm nỡ và vui vẻ kể chuyện đạo cho họ nghe. Đạo hữu Tống Anh Nghị đã có bài thơ cảm tác, sau khi hầu chuyện với Ôn:
Nghe tiếng Già Lam những tưởng già,
Gặp Ôn Viện chủ có chi tra
Khuyên tu ý đạo còn phong phú .
Tình cảm hơi thơ vẫn đậm đà.
Góp mặt Á Âu soi chánh pháp,
Bền chân Nam Bắc độ Ta bà.
Với Ôn mình thấy mình tươi tỉnh,
Mà cả thiền môn cũng trẻ ra.
Trong nhà như thế, khi đi đường mệt nhọc, Ôn vẫn vui tươi và làm cho mọi người vui theo. Có một hôm Ôn đi Nha Trang lo Phật sự, trên đường đi, cầu bị hư, xe không qua được, phải ngồi đợi. Trong khi mọi người xì xào bực nhọc, Ôn liền đặt một câu đố mọi người cùng nhau giải lao như sau:
“Thắp hương khấn với ông bà,
Cho con ăn hút rượu trà say sưa,”
Đố là cái gì? Mọi người suy nghĩ mãi không ai trả lời đúng: Cuối cùng Ôn giải thích: “Cầu cho con ăn hút rượu trà say sưa, như vậy chắc chắn không phải cầu cho con “nên”, mà cầu cho con “hư” tức là Cầu Hư. Cầu hư thì xe không qua được nên chúng mình mới ngồi chờ đây? Mọi người hiểu ra cười ồ lên, bao nỗi bực nhọc tan biết hết với câu chuyện hài hước của Ôn.
Ôn vui vẻ và thích ứng với mọi hoàn cảnh như thế đó, nện Hòa thượng Thiện Siêu đã phát biểu cảm tưởng về Ôn trong ngày Chung thất có đoạn như sau: “Ngồi với Hòa thượng thì Hòa thượng trở thành Hòa thượng, đối với Tăng trẻ Hòa thượng trở thành Tăng trẻ, đối với thanh niên Hòa thượng trở thành thanh niên, đối với em bé Hòa thượng cũng nói chuyện vui vẻ như một em bé…”
Đó là đơn sơ vài nét về nếp sống bình thường hằng ngày. Còn tâm tư của Ôn đối với đạo pháp và dân tộc thì ai cũng thấy Ôn yêu, mến quê hương xứ sở rất sâu xa và nồng nhiệt, trong tinh thần đạo pháp, Ôn phụng sự Đạo pháp cũng trong tinh thần dân tộc. Với Ôn, Đạo pháp và Dân tộc không thể tách rời nhau. Trong bài điếu văn của Giáo hội Trung ương đã nhắc lại lời Ôn thường bảo: “Những gì chúng tôi làm cho đạo pháp, cũng là làm cho dân tộc và những gì chúng tôi làm cho dân tộc cũng là làm cho đạo pháp”. Tình cảm sâu xa đậm đà và sự gắn bó ấy, đã được bộc lộ trong bài thơ “Nhớ làng”:
Tôi nhớ làng tôi sống cực nghèo,
Lũy tre soi bóng nước trong veo.
Quanh năm phẳng lặng dòng sông Hãn
Đùm bọc thân yêu tấm nhiễu điều
Làng tôi xa lánh cảnh phồn hoa,
Sớm tối chuông ngân khắp mọi nhà.
Luống cải vồng rau sanh hoạt thú,
Tiếng cười xen lẫn tiếng dân ca.
Làng tôi cát mịn nước hồ trong,
Gió mát sen thơm dân một lòng
Chạp giỗ sum vầy tình nội ngoại,
Buồn vui san sẻ đói no chung.
Làng tôi khó tả hết tình yêu.
Dù nói bao nhiêu chẳng thấy nhiều,
Biển rộng trời cao tôi thấy nhỏ.
Trung kiên đất tổ ngập tình yêu.
Đối với đất mẹ Việt Nam Ôn đã thao thức nhiều, nên chính tay Ôn đã tạo dựng một hòn non bộ hình bản đồ Việt Nam tại trước Thiền thất Ở Phật Học Viện Nha Trang trong thời gian Ôn ở đó và khắc một bài thơ trên tấm đá non bộ do Ôn sáng tác như sau:
Dấn thân mây bạc giang hồ,
Chạnh lòng quê mẹ dư đồ Việt Nam.
Này thắng tích nọ danh lam
Máu xương trang trải ai làm nên khung.
Đúc hun khí tiết hào hùng,
Hai vai gánh nặng Quang Trung Nguyễn Hoàng.
Trường Sơn một dãy hiên ngang.
Càng nhìn càng ngắm muôn vàn kính yêu.
Non sông gấm vóc mỹ miều
Ngàn năm văn hiến nhiễu điều giá gương.
Dù cho Nam Bắc đôi đường,
Đốt lò hương nguyệt bốn phương một nhà.
Sớm hôm hướng nẻo Phật đà,
Sắc không tâm sự đường xa nỗi gần.
Mong sao giữ vẹn mười phần,
Thanh cao dáng núi trong ngần vẻ sông.
Gấm non gương nước trăng lồng,
Đạo vàng dân tộc chiếu hồng muôn xuân.
Câu chót trong bài thơ trên đã nói lên tinh thần Đạo pháp và Dân tộc là một của Ôn.
Trên phương diện xây dựng đạo pháp, mối quan tâm và lo lắng nhất của Ôn là vấn đề nhân sự. Có đủ Tăng Ni thật học thật tu, đạo pháp mới được tiếp nối truyền thừa và phát huy rực rỡ. Do đó, suốt đời Ôn đã chịu cực chịu khổ kiên tâm bền chí lo đào tạo Tăng tài trên hai phương diện học và tu. Cho nên một mặt Ôn liên tiếp xây dựng các Phật học Viện như Linh Quang, Báo quốc Ở Huế, Phổ Đà ở Đà Nắng, Hải Đức Ở Nha Trang, Linh Sơn ở Đà Lạt, Già Lam và Viện Cao Đẳng Phật Giáo ở chùa Pháp Hội Sài Gòn. Một mặt Ôn lo mở giới đàn lớn truyền thụ đến hàng ngàn giới tử. Thọ Phật giới tức nhâp Phật vị, cho nên trong lời phát biểu khai giới đàn Ấn Quang ngày 24.9.1980, Ôn đã nhấn mạnh như sau:
“Treo cờ ngũ sắc tràng phan, đàn tràng kiến lập.
Gióng lớn trống song âm Bát Nhã, pháp sự cử hành.
Giới sư mười vị cung an,
Tác pháp ba đàn lễ tấn.
Chọn người làm Phật .
Tìm thánh trong phàm.
Ngõ hầu quang vinh họ Thích Ngàn đời.
Rạng rỡ nhà thiền muôn thuở.
Bốn ơn đền đáp.
Ba cõi đồng nhờ”.
Đào tạo Tăng tài trên hai cơ bản ấy, Ôn đã cung ứng được khá đông nhân sự có tu có học ra gánh vác Phật sự khắp miền Trung Nam Bắc và một số ở nước ngoài.
Đối với quảng đại quần chúng, trong những buổi trai tăng, thuyết giảng, trao huấn từ, tùy theo mỗi trường hợp Ôn phát biểu mỗi cách khác nhau, nhưng bao giờ cuối cùng cũng nguyện “cùng nhau làm bà con quyến thuộc trong ánh đạo từ bi, hộ trì Phật pháp còn mãi ở thế gian để lợi lạc hữu tình.”
Lập trường phục vụ đạo pháp của Ôn rất uyển chuyển cũng rất dứt khoát. Uyển chuyển là sẳn sàng hy sinh cá nhân, bản ngã riêng tư, để phục vụ đạo pháp và dân tộc. Lần sinh nhật lần thứ 70 của Ôn, Ôn đãi anh em cựu học tăng xôi và chè, Ôn bảo: “Xôi là dẻo dai, chè là ngọt ngào, muốn thành công trên đường đời thì phải dẻo dai và ngọt ngào”. Đó là tinh thần uyển chuyển tùy duyên. Nhưng trong tinh thần tùy duyên phải giữ cho được bản chất bất biến: Nghĩa là những gì có hại cho Đạo pháp và Dân tộc, Ôn vẫn giữ lập trường cứng rắn, không chịu khuất phục dù trước bất cứ bạo lực nào. Tinh thần tùy duyên bất biến, Ôn đã thể hiện trong những vần thơ sau đây:
Xuân về Mậu Ngọ tuổi lai hy,
Chẳng dám khoe chi chẳng muốn chi.
Bảo ở thì ừ, hoan hỷ ở,
Kêu đi âu cứ tự nhiên đi.
Cành khô lá úa, mai nhưng nụ
Mây cuốn, sương tan đá vẫn lì
Vô tận không thời vô tận ý.
Thị chưa từng bận ngại gì phi.
Nhân ngày Tiểu tường, ôn lại một số nét trong cuộc đời vô cùng phong phú và ý nghĩa của Ôn, chúng con nguyện mãi mãi sống theo tinh thần và lập trường của Ôn để phụng sự đạo pháp và dân tộc.
MỪNG TUỔI THỌ HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ
Nhân ngày giỗ đầu Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Thượng tọa Thích Nhật Lệ có ghi lại một số cảm tác vè, câu hò chúc tụng trong các dịp mừng sinh nhật Hòa thượng, lúc còn sinh thời.
Để tập văn thêm phong phú, chúng tôi trích đăng một số cảm tác, câu hò tiêu biểu.
BAN THỰC HIỆN KỶ YẾU
Mừng Ôn 72 tuổi:
Một bước Người đi là an nguy Giáo Hội
Mỗi lời người nói là đường lối tương lai
Hôm nay mừng thọ bảy hai
Dâng lời chúc tụng nhãn tàng diệu nghĩa
Hoàng mai đắc truyền.
Mừng Ôn 73 tuổi:
Tám trăm tuổi chẳng thấy già
Thất thập tam tuế Hòa thượng chưa tra
Dù bao bão táp phong ba
Con thuyền Giáo Hội Thầy ta vẫn chèo.
Mừng Ôn 74 tuổi:
Tuổi Ôn bảy mươi tư
Thân Ôn áng mây từ
Tâm Ôn vô sở trú
Hạnh Ôn thật như như.
Mừng Ôn 76 tuổi:
Mừng Ôn bảy sáu mùa xuân
Chúc Ôn tuổi thọ tăng dần ngoài trăm
Đức Ôn sáng tỏa trăng rằm
Hạnh Ôn dài rộng tháng năm khôn lường
Hậu sanh quyết chí noi gương
Dẫm chân ghì gót bước đường Người đi
THÍCH NHẬT LỆ
TỊNH MINH
Hơn nửa thế kỷ qua nếp sống đạo hạnh sáng ngời của Ôn đã gắn liền với sinh mệnh của Tăng Ni và tín đồ Phật tử, đặc biệt là Tăng chúng ở các Phật học viện Báo Quốc Huế, Hải Đức Nha Trang và Quảng Hương Già Lam Sài Gòn. Ôn đã yêu thương dưỡng dục chúng Tăng như cha mẹ thương yêu lo lắng cho con. Những ai may mắn được gần gũi Ôn, dù nhìn ở góc độ nào cũng nhận ra điều đó.
Hình như tuổi tác và hạ lạp của Ôn không có biên cương ngăn cách với tính tình hồn nhiên, tươi mát của chúng điệu. Cứ nhìn Ôn chơi cầu ném (boule), cờ tướng, là ta thấy rõ chân tướng từ ái hòa điệu của Ôn. Ôn thích chúng điệu luyện tập thể dục thể thao, Ôn lo cho chúng điệu từng trái cầu lông, từng quả bóng chuyền, từng chiếc mũ vải v.v… Ôn không sợ chúng điệu vì thế mà đánh mất oai nghi tế hạnh mà chỉ sợ chúng điệu èo uột xanh xao hay ngơ ngác chậm lụt. Mỗi khi nghe Tăng chúng khỏe mạnh hay tu học thành đạt ở cấp độ nào,gương mặt Ôn cũng hiện rõ nét vui mừng hoan hỷ. Ôn không những chăm lo yêu quí Tăng chúng mà còn xót thương che chở cho những anh em không may phải xa chùa xa bạn. Ôn sợ đàn con của Ôn bị hất hủi thăng trầm theo thế nghiệp. Tâm tư tình cảm của Ôn lúc nào cũng dành trọn cho bàng môn đệ. Một hôm Ôn tâm sự:
“Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh.
Thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh,”
Đúng rồi, Chính vì tâm niệm này mà cả đời Ôn gắn liền với các Phật học viện, gắn liền với Tăng chúng, gắn liền với chiều hướng không gian thời gian. Ôn không ngại núi đồi trở ngại mà chỉ lo thiếu bóng Thánh Hiền, Ôn không quản nước sông khô cạn mà chỉ lo vắng mặt rồng thiên.
Ôi! Hạnh nguyện của Ôn là kết tinh của triệu hạt kim cương để rồi lunglinh phản chiếu ra muôn màu muôn vẻ. Ôn đã giáo hóa chúng con không chỉ bằng bảng đen phấn trắng, bằng ngôn ngữ văn tự, bằng kinh điển truyền thừa mà bằng cả ánh mắt hiền hòa, nụ cười âu yếm, dáng đi thanh thoát, thế đứng đường đường, bằng cả những nhịp tay uyển chuyển đưa lên khi Ôn lễ Phật, bằng cả những ngữ điệu trầm hùng khi Ôn xưng tán Như Lai. Ôn đã truyền hơi ấm cho chúng con, Ôn đá tắm gội chúng con bằng hương hoa thánh thủy, Ôn đã nuôi dưỡng con bằng giọt sữa đề hồ, Ôn đã sắm sửa hành trang cho biết baoTăng Ni Phật tử lên đường đạo hạnh. Ôn thường dạy chúng con :
“Chư Phật lưỡng túc Tôn
Tri pháp thường vô tánh
Phật chủng tùng duyên khởi
Thị cố thuyết nhất thừa”.
Chúng con nguyện khắc cốt ghi lòng lời dạy vàng ngọc của ôn: “Phật chủng tùng duyên khởi” vâng, “Phật chủng tùng duyên khởi”!
Âm hưởng của ôn chân tình, nhân hậu, cao quý và thanh thoát quá. Văn tự biểu tượng của chúng con không đủ sức chuyên chở ý nghĩa vòi vọi của hạnh nguyện ôn. Đành rằng biểu tượng không phải là thực thể, ngôn ngữ diễn đạt không phải là chân lý thường hằng, song xin Ôn cho phép chúng con đượcvay mượn một số những biểu tượng sai biệt của hồng trần để tỏ bày chút tình thiêng liêng bất diệt.
Kính xin Ôn xót thương hỷ xả và chứng giám cho chúng con.
Thời gian như cánh vạc bay
Ba thu vằng vặc trăng đầy lại vơi
Ngàn trùng ngăn cách xa xôi
Sông mê một giải kiếp người lênh đênh
Đắm chìm trong cõi vô minh
Đường về bến giác mông mênh xa vời.
Thầy xưa khuất bóng đi rồi
Chùa xưa còn dấu chân người thiền du
Một đời đạo hạnh chân tu
Hoằng dương chánh pháp ngàn thu sáng ngời
Chùa thiêng, học viện đắp bồi
Tăng tài đào tạo nơi nơi nối truyền
Vững tâm chèo lái con thuyền
Mặc cho giông bão phủ trên mái đầu
Chùa xưa vang tiếng kinh cầu
Nhịp chuông thong thả lắng sầu thế gian
Hương trầm quyện nắng chiều tan
Giảng đường im vắng vồng rau tiếng Thầy
Sông mê bể đục dẫy đầy
Người người ngụp lặn vũng lầy khổ dau
Con ơi tỉnh giấc lại mau
Hòa trong chính niệm cùng nhau tu hành
Thương nhau gìn giữ hạnh lành
Xả thân cầu đạo, xả sanh giúp đời
Thuyền từ đã ghé bến rồi
Nhanh lên bến giác sáng ngời chảng sai.
TN TỊNH NGUYỆN
MỘT LỜI CA, MỘT HUẤN THỊ …
NHƯ TÂM
Thế là đã gần một phần tư thế kỷ rồi, bạch Ôn. Mỗi lần nhớ đến, con cứ tưởng rằng các sự kiện mới xảy ra ngày hôm qua .
Vào khoảng đầu tháng sáu năm1963, chùa Từ Đàm bị chính quyền Ngô Đình Diệm vây kín. Lúc đó, cuộc vận động cho bình đẳng tôn giáo và công bình xã hội của Phật giáo
trọng tâm còn nằm ở Huế, nơi phát xuất. Ôn là Tổng thư ký của ban lãnh đạo gồm 5 thành phần: Tổng Trị sự Hội PGVN tại TP, Tổng Trị sự Giáo hội PGVN tại Trung phần, hai ban Trị sự hội và Giáo hội tỉnh Thừa Thiên và Đại diện cho Tổng hội PGVN. Vì là Tổng thư ký của Hội PGVN tại thời ấy, nên con là Thư ký chung, cómặt thường xuyên bên cạnh quý Ôn, quý Thầy lúc đó tập trung tại Chùa Từ Đàm.Cũng trong những ngày đó, Hòa thượng Hội chủ, quý Ôn, quý Thầy đang tuyệt thực. Trong chùa có đến gần 500 người đủ mọi giới: tiểu thương, sinh viên, học sinh, hướng đạo, gia đình Phật tử v.v..đoàn thể nào cũng có trách nhiệm riêng.
Ngày 4.6.1963, chùa Từ Đàm bị đặt trong tình trạng nội bất xuất, ngoại bất nhập – các con đường dẫn vào chùa bị những vòng rào dây thép gai khép kín. Sau hàng rào kẽm gai là lính rằn ri, chen lấn với lớp đạo hữu chỉ biết đứng lặng nhìn vào. Có người sụp xuống lạy, vì đã 7 ngày rồi, quý Ôn quý Thầy tuyệt thực. Không phải chỉ có lính, có kẽm gai mà có cả những chiếc xe phát thanh suốt ngày chĩa loa vào chùa đọc thôngbáo của chính phủ rồi những bản nhạc liên tục.
Qua ngày thứ tư, sau loạt thông cáo thường lệ thì chiến dịch thay đổi:lời kêu gọi con em ở trong chùa trở về với gia đình. Anh em khóc với nhau:”Chiêu hồi… Chiêu hồi”. Chiều hôm ấy, Ôn ngồi trên tam cấp chùa, vẫy con lại ngồi bên. Im lặng, bỗng bên ngoài có tiếng gọi tên một người ra để mẹ gặp.Đó là một em thiếu niên gia đình Phật tử. Em ấy xin phép ra gặp mẹ. Mới đến cổng chùa 4, 5 chú cảnh sát vọt lên ôm chằm bỏ lên xe. Hành động thật bất ngờ làm ai nấy sửng sốt, Ôn nhìn con bùi ngùi. Con vụt đứng dậy. Ôn kéo con lại ngồi xuống bên, nhấn vào vai con. Lúcđó anh em gia đình Phật tử, sinh viên
Phật tử, học sinh Phật tử tập trung trước giảng đường, la ó. Tôi ra lệnh im. Phía ngoài lại kêu một tên khác, và có thân sinh đến gặp. Không có tiếng đáp lại. Sau khi lục danh sách biết rằng không có tên ấy, chúng tôi trả lời là tên ấy không có ở đây. Thân sinh xin vào
nhìn mặt. Chùa chấp nhận. Người ấy đi vào nhìn hết em này đến em khác, khi đến gần Ôn bèn nói nhỏ: con nói láo để được vào thăm quý Ôn quý Thầy. Nói xong, người ấy vội vã ra đi.
Tên một em nữa lại được gọi lên và thân sinh em ấy xuất hiện ở cổng chùa, gần gốc Bồ đề. Gọi đến tên, em ấy bước ra đến trước sân chùa hướng vào điện Phật lạy ba lạy từ tốn. Cả sân chùa im lặng, hồi hộp. Đó là một huynh trưởng. Em ấy đến xá Ôn ba xá, và nghiêm chỉnh đứng chào con theo lối gia đình Phật tử. Xong em Đ, đó là em đã được giao phó cầm biểu ngữ trong ngày Phật đản. Con có nhớ rõ, con trao cho em Đ. câu khẩu hiệu:
“PHẬT GIÁO ĐỒ NHẤT TRÍ BẢO VỆ CHÁNH PHÁP DÙ PHẢI HY SINH”
Sân chùa im phăng phắt, phía bên ngoài cũng im phăng phắt. Khi đến cách cha khoảng 10 thước, em cúi xuống lạy cha hai lạy. Con liếc mắt nhìn Ôn. Mắt Ôn sáng lên không khí thật ngột thở. Thân phụ em Đ. đứng lặng như trời trồng. Lạy xong, em Đ. tiến đến trước micro – pile để ở giữa sân chùa: “Thưa Ba, Ba thấy rõ ràng đó.Chùa không ép buộc chúng con ở lại trong chùa như lời rêu rao của chính quyền. Chính những dây kẽm kia và đoàn lính ở bên ngoài vây hãm chùa, không cho ai ra vào được đấy chứ! Xin Ba về yên tâm. Ngày nào những dây kẽm gai kia được dẹp đi, đoàn lính vây chùa không còn nữa, chúng con sẽ về.Kính lạy Ba và Mẹ. Em Đ. lạy hai lạy nữa rồi từ tốn bình thản bước vào hàng ngũ. Một tràng pháo tay nổi lên .Tôi ra hiệu im. Khi em Đ. đến xá Ôn, và chào con, Ôn kêu lại và bảo con cho Ôn mượn chiếc hoa sen. Con cởi huy hiệu vì con lãnh hội được ý của ôn rồi. Con mở chiếc hoa sen từ túi em Đ, và Ôn đứng dậy, nghiêm chỉnh không một lời cài chiếc huy hiệu hoa sen vào túi em Đ. Một viếng vang lên Phật tử – tinh tấn.
Bài ca Sen Trắng được vang lên trầm hùng và tiếp sau đó là bài “Kính mến Thầy”.
Tất cả sự kiện diễn tiến rất đột ngột, nhưng lại rất thích hợp – Ôn cũng đứng yên, cảm xúc hiện rõ. Nước mắt con dàn dụa vì sung sướng và cảm dộng. Không đầy năm phút. Thời gian như lắng đọng lại. Ôn kéo tay con vào văn phòng. Trên đường đi, Ôn thầm nhắc lại đến hai, ba lượt lời ca:
“DÙ BAO NHIÊU GIAN KHỔ, DÙ GẶP NHIỀU NGUY KHÓ, LÝ TƯỞNG CHÚNG CON VẪN TÔN THỜ”
Mười ba năm sau, năm 1976 trong lễ hiệp kỵ do Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Gia Định tổ chức tại Quảng Hương Già Lam trong lời huấn thị, Ôn đã dùng lời ca trên để làm đề tài nhắn nhủ. “Dù bao nhiêu gian khổ, dù gặp điều nguy khó, lý tưởng chúng con vẫn tôn thờ”. Chưa bao giờ con thấy lòng con rung động đến thế. Từng lời, từng chữ như thấm biến vào máu vào xương, vào từng hơi thở, từng nhịp tim. Khi ban hướng dẫn Gia Định mời con phát biểu,con xin im lặng, IM LẶNG NHƯ CHÁNH PHÁP.
Bạch Ôn, có lần nào – dù khi Ôn còn hay không còn ở lại với chúng con nữạ – đến với Ôn chúng con lại không hát lên bài hát bất diệt ấy để dâng lên Ôn và cũng để tự nhủ mình!
Một lời ca, chỉ là một lời ca. Nhưng khi phát ra từ một vị lãnh đạo đã biến thành một huấn thị có giá trị đến muôn đời.
Kính dâng Giác Linh HT.
Kính lạy ÔN!
ÔN đã nằm, nằm yên trong Bảo tháp
Mà pháp thân mầu nhiệm ,
Sống mãi giữa muôn người.
Cuộc đời ÔN! :
Một ánh sao chói ngời
Giữa đêm trường mộng mị .
Soi sáng đường nhân thế chúng con di.
Thế mà. . . . .
Ba năm rồi
Ôn vào cõi vô vi
Trên thế gian còn lại những gì
Triệu con người đau xót nhớ thương Ôn!
Và giờ đây.
Phút cảm giao thiêng liêng bất diệt
Tiếng nguyện cầu tha thiết của Tăng Ni
Quanh bảo tháp chúng con kể lể,
Nỗi nhớ này có gì thay thế Ôn ơi!
Lạy Ôn!
Ôn nằm đó có nghe chăng đã,
Lòng thương ôn và luyến tiếc đang vươn
Hôm nay đây mầm sống đang ươm .
Từ hạnh nguyện cuộc đời Ôn để lại
Giờ đây kính thành lễ bái ,
Chúng con nguyệt một lòng
Nôi tiếp bước Ôn qua.
Để ngày mai .
Đất nước nở muôn hoa
Và đạo pháp bừng lên trong ánh sáng
THÍCH PHÁP ĐĂNG
Kính dâng Giác linh Hòa thượng THÍCH TRÍ THỦ
nhân ngày Chung thất, 20.5.l984
Gót hồng nhẹ bước về ngôi,
Vẫy tay hoằng pháp, ngậm ngùi Nhân sinh…
Trăng soi Báo Quốc lung linh,
Dấu rêu còn phủ sân Thiền bóng xưa.
Trầm khơi Hải Đức hương chùa,
Nao nao biển pháp nhớ mùa huyền ngôn.
Quảng Hương sương nắng gieo hồn,
Sương bay Cổ lục, Nắng vờn Thiên thu.
Cỏ cây thao thức dáng Từ,
Mưa đau Nhược Thảo, sa mù Nhã Hoa!
Giá hương rèm lụa phất qua,
Đăm nhìn Chiếc Võng, Khay Trà… mà thương!
Nhìn sâu lối sỏi Vườn Hương,
Hài Rơm, gậy trúc in đường Thầy đi.
Chim nghiên mái Tịnh ca Bi,
Nhớ “Hoàng Hoa. . .” giọng ngâm thi buổi trà.
Ôn như Mặt Nhật chiếu xa
Môn sinh Phật tử lệ nhòa Hướng Dương…
Ân Thầy đầy ắp Nguồn Thương,
Pháp ngôn, ái ngữ đẹp dường gấm Châu.
Hàng hàng giọt lệ kết châu,
Tâm nguyền trải thảm nghinh hầu Giác linh.
Trùng trùng quang chiếu Non linh
Tâm Như nhập thánh đăng trình Giá Na.
Trầm phong kín Đọng Kim Tòa,
Non ngàn năm Hạc, Mây sa chập chùng…
TÂM TẤN
Lạy Thầy
Mất đi tiếng nói trầm hùng
Là con mất cả một vùng tuổi thơ
Nhớ ngày còn nhỏ bơ vơ
Tìm Thầy học đạo nương nhờ mai sau.
Trãi qua một cuộc bể dâu
Bên trời Hải Đức còn đâu bóng Thầy
Sáu ba chùa lại đổi thay
Thầy trò mắc nạn vì tay cầm quyền
Long đong rồi Diệm cũng yên
Thầy đưa con đến tận miền cao nguuên
Học hành sớm tối cần chuyên
Chớ nên lêu lỏng để phiền người thân
Mấy điều thầy dạy ân cần
Hai mươi tuổi đủ chớ phân chia lòng .
Cùng nhau học tập cho xong
Thiên lương một tấm lòng son vớí đời.
Mấy năm vận nước đổi dời
Người thời đi lính kẻ thời bay xa
Một lòng Thầy cũng xót xa .
Từ nơi Hải Đức bỏ vào Già Lam
Được bầu Viện trưởng Việt Nam
Thân vì đạo pháp Thầy làm mấy năm
Đến ngày thống nhất Bắc Nam
Được bầu Chủ tịch Hội đồng tối cao.
Thật kinh một trận binh đao
Con về nuôi vịt hồ ao bên trời
Vừa nghe Thầy mới qua đời
Trong cơn bạo bịnh tức thời đi luôn
Hỏi ra cho rõ nguồn cơn
Lòng con tủi tủi hờn hờn làm sao.
Trưa nay thọ lễ ân cao
Lạy Thầy nước mắt tuôn trào khó ngăn
Ngày qua gặp lúc khó khăn .
Không tiền không bạc về thăm tháp Thầy
Nén hương gởi tấm lòng này
Hồn con còn lại những ngày xa xưa
Đào Duy Thi
PHƯỚC ĐẠT
THƯ TỊCH của Hòa-thượng THÍCH TRÍ THỦ
TRUNG HẬU sưu tầm
Chúng tôi vừa nhận được bản kê thư tịch các tác phẩm của Hòa thượng Thích Trí Thủ, do Đại đức Thích Trung Hậu sưu tầm. Việc làm này đòi hỏi nhiều thời gian và công phu. Như chúng tôi thấy vì mới khởi đầu sưu tập nên chưa được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Hơn nữa, phần nhiều các tác phẩm còn trong tình trạng chưa rõ thời điểm xuất xứ và bối cảnh sáng tác, một số bài thơ lại được ghi từ sổ tay của Hòa Thượng, hoặc do các đệ tử của Hòa thượng trao lại. Cho nên, cần phải có thời gian truy cứu, bổ sung hoàn chỉnh, mới tổng kết được. Tuy vậy, chúng tôi cũng xin giới thiệu.
BTHKY
A. PHẦN DỊCH THUẬT:
– Kinh Thập thiện nghiệp đạo, PHĐ Báo Quốc, Huế 1949.
– Trường Bất Khinh Bồ Tát, Liên Hoa, Huế, 1953.
– Kinh Bát đại nhân giác (dịch thơ), Tạp chí Liên Hoa, số 4 và 5, Huế 1958.
– Kinh Bất tăng bất giảm, Liên Hoa, Huế PL 2504
– Phát Bồ đề tâm luận, Hoa Sen, Nha Trang, 1962.
– Luật Tỳ Kheo, Già Lam, Sài Gòn 1971.
– Yết ma yếu chỉ, 1983.
– Bát nhã tâm kinh, Quảng Hương, 1983.
– Kinh A Di Đà (dịch thơ bốn chữ), 1983, chưa in.
– Tứ phần luật Tỳ kheo giới bổn hiệp chú, 1984.
– Kinh Vô thường, 1984, chưa in.
B. PHẦN BIÊN SOẠN, BIÊN KHẢO, LUẬN THUYẾT:
– Đâu là Tịnh độ, Tạp chí Viên âm, Huế, số 28, năm?
– Tam quy, Tạp chí Viên âm, Huế số 84, 1949.
– Ba tháng an cư, các Tạp chí Viên âm, Liên hoa, Giác ngộ (cũ), số?, Huế 1949.
– Giới luật Tạp chí Viên âm, số 89 – 90 – 91, Huế 1950.
– Pháp môn Tịnh độ, Hoa Sen, Nha Trang, 1961
– Mẹ hiền .Quan Âm. Hi mã lạp sơn, Sài Gòn 1968.
– Những điều căn bản cho Phật tử mới quy y Tam Bảo, Tu viện QHGL, Sài Gòn 1970
– Thử vạch một quy chế cho Tăng sĩ và một chương trình đào tạo Tăng sinh
thích ứng với nhu cầu của Giáo hội trong hiện tại và tương lai, PHV Trung phần, Nha Trang, 1971.
– Nghi thức Phật Đản, Tu viện QHGL, Sài Gòn 1971.
– Nghi thức truyền giới Thập thiện và Bồ tát tại gia, Tu viện QHGL, Sài Gòn 1974.
– Để trở thành một Phật tử, 1980, chưa in.
– Nghi thức tụng niệm hằng ngày của Phật tử, 1984, chưa in.
– Nghi thức lễ sám hối buổi khuya, 1984, chưa in.
– Chỉnh lại cuốn luật Tỳ kheo, 1983. .
– Nghi thức cúng Giao thừa và vía Di Lặc.
– Pháp môn lễ sám.
– Chúng ưu bà di nội quy.
– Nghi thức lễ sám hằng ngày,
– Giáo lý về nghiệp (Cơ sở đạo đức học và luật học).
– Nghi thức quy giới.
– Bát quan trai giới.
– Sự tích Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
– Pháp trưởng tịnh (Bồ tát) cho người tại gia.
– Bồ đề tâm.
– Nghi thức cầu an, Lễ thành hôn.
– Quy kính Phật Đà.
– Nghi thức cúng cô hồn.
– Nghi chẩn tế.
– Phạm vi cõi Cực lạc.
– Một Đức Phật hai hình ảnh.
– Nghi thức trì chú Đại bi.
C. PHẦN SÁNG TÁC:
– Thăm đạo hữu Nguyễn Mậu Tùng tại Nước ngọt, thơ 194O.
– Cảm niệm đức Thế Tôn thành đạo, thơ 1948.
– Hướng về, thơ, Đặc san MỪNG PHẬT ĐẢN, PHVTP Nha Trang 1957.
– Thích Ca thành đạo sao lục kỷ niệm, thơ, Đặc san ĐỜI SỐNG ĐẠO, PHVTP, Nha Trang, PL 2505.
– Xuân Quý Mão cảm tác, thơ 1963.
– Thơ nhác, Tạp chí Thiện Mỹ, số 48, Sài Gòn 1965.
– Vịnh cây Bồ Đề, 1968
– Tự Thuật,thơ 1968.
– Nhớ làng, thơ 1969.
– Xuân Canh Tuất, thơ 1970.
– Xuân 72, thơ.
– Xuân Mậu Ngọ, thơ 1978.
– Viếng cảnh Hương Sơn, thơ l980.
– Viếng lại Chùa Hương, thơ 1983.
– Thăm lại chùa Non Nước, thơ.
– Pháp ngữ 12 nhân duyên, pháp ngữ.
– Việt Nam Phật giáo Thống nhất Giáo hội Tăng già Bi minh, Văn bia.
– Chín bài phú pháp cho đệ tử, kệ.
– Lời đề tựa Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, văn xuôi.
– Thơ tặng Trí lực.
– Điếu sư huynh Trí Giải, văn điếu, trong Tra Am và Sư Viên Thành, của?
nơi? năm?
– Vịnh Tra Am, thư dịch lục bát, trong Tra am và sư Viên Thành, của? nơi?
năm?
– Phần hương nhất nguyện, thơ.
– Cảm đề non bộ bản đồ Việt Nam thơ, PHVTP Nha trang, mùa đông Quý Sửu.
– Hạ trung cảm tác, thơ.
– Cảm tác xuân Tân Mão, thơ.
– Vịnh lại một bài thơ, thơ.
– Lên vọng hải đài l, thơ.
– Lên vọng hải đài 2, thơ.
– Bái vị chân tu Thích Thiện Hoa, thơ.
– Được tin Thầy Kim Tiên viên tịch gởi về điếu.
– Điếu Hòa thượng Mật Nguyện chùa Linh Quang, Huế.
– Khai bút Xuân Nhâm Tý, thơ, PHVTP Nha Trang.
– Cảm niệm ngày Thầy nhập diệt (7-l0 Bính Thìn – 48 năm khi Thầy viên tịch).
– Cảm tác sinh nhật 67 tuổi.
– Khuyên tu Tịnh độ, thơ.
– Làm thay con gái ông Đắc khóc cha, thơ.
– Tôn thờ đức Phật chí kiên trinh, thơ. .
– Ngùi đọc Nga thi, thơ.
– Cảm tác bài thơ già của Sư Bà Như Không, thơ.
– Bài kệ tặng ĐM để kỷ niệm an cư 2520 tại QHGL.
– Vô đề thơ.
– Tặng một Phật tử, thơ.
– Bài thơ Bèo (HT Trí Thủ dịch sát nghĩa).
– Người ngâm Hoa Đào (Tân Dậu cảm tác), thơ.
LỜI CẢM TẠ
Tập Kỷ yếu Hòa Thượng Thích Trí Thủ, vì một số điều kiện, còn nhiều thiếu sót, kính mong Quý vị hoan hỷ.
Qua các phương diện, sự đóng góp của Chư Tôn Hòa Thượng Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni và Phật tử xa gần thật vô giá, ban thực hiện chân thành cảm tạ.
BAN THỰC HIỆN KỶ YẾU
CÁO LỖI
Vì khuôn khổ có giới hạn, KỶ YẾU rất tiếc không thể đăng hết tất cả các điện tín, lời cảm tưởng trong sổ tang cùng một số các bài khác đã gởi về cho KỶ YẾU
Xin thành thật cáo lỗi.
BAN THỰC HIỆN KỶ YẾU