Từ luật và luật pháp trong thế gian, như chúng ta đã nghe nhiều. Luật trong Phật giáo một cách tổng quát cũng cùng ý nghĩa như thế gian nhưng vì mục đích khác cho nên nội dung cũng phải khác. Mục đích của Phật đặt ra luật là gì? Là để tạo điều kiện cho một Tỳ-kheo, một Phật tử, đạt đến Thánh đạo, chứng quả Niết-bàn. Mục đích luật của thế gian là gì? Là lập trật tự cộng đồng, để cho thịnh vượng và hạnh phúc, để hưởng thụ vật dục trong thế gian. Mục đích khác nhau nhưng bên nào cũng cần luật. Từ luật, mỗi nơi sử dụng khác nhau nhưng ý nghĩa của luật là phổ quát. Luật là luật pháp. Trong Phật giáo chữ Luật trong Kinh điển gọi là vinaya (âm Tì-nại-da, hay tì-ni), do gốc động từ vi-nī: vinayati, dắt dẫn, hướng dẫn. Vinaya, nghĩa cơ bản là dắt dẫn, hướng dẫn, từ đó hiểu qua nghĩa bóng là huấn luyện; chữ Hán dịch là điều phục. Điều phục chính là huấn luyện; mà huấn luyện thì phải có kỷ luật. Như người học nghề v.v…, nghề nghiệp nào cũng cần có kỷ luật. Tất cả đều có luật của nó để hướng dẫn việc làm. Thành ra theo ý nghĩa trong kinh, luật là điều phục, mà điều phục đây đương nhiên là điều phục tâm. Nhưng trong điều phục của luật có hai phần: Điều phục tập thể và điều phục cá nhân. Tổng quát Phật chế luật với 10 mục đích, gọi là “Thập cú nghĩa” (Pali: dasa atthavase paṭicca). Trong những mục đích này, cơ bản là tạo sự hòa thuận giữa Tăng (Pl.: saṅghasuṭṭhuyāya) và đem lại sự an lạc cho Tăng (saṅghaphāsutāya), tức nhân và quả thành hai điều.
Thứ nhất là tạo sự hòa thuận, đây là một trật tự hòa thuận. Hòa thuận là gì? Nghĩa là Tăng chúng thì phải có trật tự. Một Tỳ-kheo và các Tỳ-kheo sống trong một cộng đồng, khi đi đứng nằm ngồi, ra vào phải có khuôn phép trật tự chứ không thể tự tiện. Có luật thì có trật tự, Tăng chúng mới ổn định được. Ngoài ra, người ta vẫn thường nói “con sâu làm rầu nồi canh”. Trong một tập thể mà có một thầy Tỳ-kheo sống nghênh ngang thì uy tín của Tăng nhất định bị ảnh hưởng. Thời Phật, hai Tỳ kheo A-thấp-bà và Phú-na-bà-sa (Pl. Assaji-Punabhasu), sống trong một tụ lạc mà quan hệ với thế tục không theo khuôn phép của Tăng, nên khi ngài Xá-lợi-phất dẫn đệ tử đến không được ở đó có thiện cảm, không ai cúng dường gì cả, nên khất thực mà bưng bình bát không trở về. Ngài biết rằng, ở đó có vị Tỳ-kheo nào đó sống ô-tha-gia, làm ác hành, sống không đúng tư cách nên tuy rằng đạo đức như ngài Xá-lợiphất ôm bình bát đi khất thực mà không ai đặt bát cho. Sau đó sự việc được biết rõ, Phật khiến các Tỳ-kheo tác pháp đã đuổi hai ông ấy đi chỗ khác. Chính là phải có những quy luật như vậy để ràng buộc thì mới có trật tự trong Tăng. Điều đó có nghĩa Luật tạo trật tự trong cuộc sống của tăng. Có trật tự thì mới có an lạc, tức là Tăng an lạc. Mà có an lạc thì các Tỳ-kheo trong tập thể đó mới có điều kiện tu hành. Trong một tập thể nào mà trong đó Tăng chúng thuần tịnh, đi đứng có nề nếp, giờ giấc tu hành nghiêm chỉnh thì cá nhân Tỳ-kheo mới yên ổn tu tập được, mặc dù mỗi người tu theo cách riêng của mình. Đây là ý nghĩa điều phục tập thể. Điều phục này có nghĩa là luật ràng buộc để tạo trật tự, đem lại sự an ổn và an lạc trong Tăng.
Thứ hai là điều phục cá nhân. Điều phục này gọi là trừng trị những kẻ ngoan cố, tức là điều phục những kẻ chưa điều phục và kẻ đã được điều phục thì làm cho phát triển. Tức là những người sống vô kỷ luật khi vào Tăng chúng được khép vào kỷ luật. Chính điều này cũng quan trọng, bởi vì khi độ người xuất gia chúng ta đâu biết rằng người ấy là Thánh hay phàm, chân hay giả, mà chỉ biết sự chân thành ở mặt ngoài thôi. Ngay trong thời Phật cũng có kẻ xuất gia chỉ vì mục đích kiếm ăn hay trà trộn vào để phá Tăng. Người ấy sau khi xuất gia, bị bắt buộc học Luật trong tất cả mọi oai nghi đi đứng, nằm, ngồi, quan hệ, tọa thiền v.v… trong tất cả mọi sinh hoạt tu học, một thời gian sau quen với đời sống đó, hiểu đời sống đó, thì từ một con người xấu xa, gian xảo quỷ quyệt được trà trộn vào để kiếm ăn hay phá hoại, cuối cùng cũng trở thành con người tốt. Đó là sự cảm hóa vi diệu của Chánh pháp.
Thích Tuệ Sỹ, trích “Luật – Những khái niệm cơ bản về luật”, tập san Pháp Luân 29, 2006.