QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO CHÍNH THỐNG ĐỐI VỚI TÍNH DỤC (Phần 2)

QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO CHÍNH THỐNG ĐỐI VỚI TÍNH DỤC

(PHẦN 2)

Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa cho đến nay luôn chia thành hai hướng. Hướng thứ nhất chảy theo dòng Luân hồi (Saṃsāra), đó là số chúng sinh tâm tư còn cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược. Hướng thứ hai lưu chảy về Niết-bàn (Nirvāṇa), đây chỉ cho lớp người vượt thoát sinh tử, điều chỉnh ngã thức, chế ngự cảm xúc vị kỷ thô lậu. Số người này là chúng đệ tử Thích Tôn, tập trung xây dựng một xã hội thu nhỏ, núp bóng trong rừng sâu, ẩn xa sau cổng viện, những con người mang chí nguyện theo đuổi đời sống tâm linh, giữ trọn lối sống nghèo khó và khiết tịnh.

Lúc Phật còn tại thế, theo Luật tạng ghi chép (luật Tăng-kỳ, Pāli v.v…), trong thời kỳ đầu thành lập Tăng đoàn, đệ tử của Phật là nhóm Kiều-trần-như (Koṇḍañña), ba anh em Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp (Uruvela-kassapa), Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên v.v… đều là những bậc Thánh giả cho nên lúc này đức Phật chưa chế giới. Sau đó, tỳ-kheo Sudinna (luật Tăng-kỳ gọi là Da-xá 耶舍) là người phạm giới dâm đầu tiên, đức Phật bắt đầu chế giới. Tuy nhiên, không phải giới Phật chế ra là ai cũng tuân thủ một cách dễ dàng. Sau khi Phật chế giới, nhiều tỳ-kheo phàm phu không thể chế ngự được dục ái, nghĩ rằng quan hệ với người nữ sẽ phạm giới, mới hướng đến quan hệ với loài vật; khiến Phật chế định hành dâm với con người và vật đều phạm ba-la-di.

Có lẽ thời Phật, người phạm giới này không cho sám hối bởi hai lý do chính:

1. Người xuất gia được gọi là Phạm hạnh, Phạm hạnh (梵行, Skt. brahma-caryā, P. brahma-cariya), là một từ khái niệm trong các tôn giáo Ấn-độ (Indian religions) có nghĩa đen là duy trì hạnh kiểm bên trong Bản ngã của chính mình (own Self, Ātman). Ấn-độ giáo (Hinduism), Phật giáo (Buddhism) và Kỳ-na giáo (Jainism) thường nói đến vấn đề này là đề cập một lối sống đặc trưng bởi sự kiềm chế tình dục hoặc kiêng cử hoàn toàn. Quan điểm của Phật giáo, ham muốn khoái cảm (pīti) tình dục sẽ làm trở ngại thiền định (jhāna), phương hại đến con đường tâm linh tiến tới giác ngộ, cũng là nguyên nhân tiềm ẩn dẫn dắt cho sự tái sanh tiếp diễn.

Nếu lý giải về chữ “Nghiệp” trong nhà Phật thì Phạn ngữ “karman” hay từ Pāli “kamma” có nghĩa là ham muốn nhục dục, kể cả thèm khác xác thịt lẫn mê hoặc bởi các giác quan khác. Và từ ngữ “Dukkha” (Khổ thánh đế, duḥkhārya-satya) chỉ cho những cảm giác, những thất vọng, những thứ mà chúng ta không hài lòng trong cuộc sống – tất cả đều bắt nguồn từ những ham muốn nhục dục nói trên. Vòng tái sanh, trong luận Câu-xá diễn tả cả một tiến trình nhiễm dục của hữu tình khi gá vào thai như sau: Trung hữu, để đi đến chỗ tái sinh, trước phải khởi tâm điên đảo hướng đến cảnh mình ưa thích. Lúc ấy bằng nhãn căn phát sinh do nghiệp, trung hữu thấy nơi cha mẹ đang giao hợp (交會, vipratipatti) rồi khởi tâm điên đảo (Viparyastamatir). Nếu trung hữu là nam, nó duyên đến người mẹ mà khởi tham dục của người nam; nếu là nữ thì nó duyên đến người cha mà khởi tham dục của người nữ (cf. Tì-bà-sa 70, p. 363b20). Và “Thân trung hữu (antarbhava) khi nhập thai đi qua cửa sinh đạo (chỉ cho ‘cửa mình’ người nữ, yonidvāreṇa)”. (Câu-xá 9, p. 46a1 – p. 46c9).

Vì vậy, nói đến hành dâm tức chỉ cho tánh tội, dù Phật chưa chế giới thì hành vi đó vẫn tích lũy nghiệp dị thục, cho nên tỳ-kheo, hay tỳ-kheo-ni phải tránh xa và đoạn tận. Đây cũng là cửa ải duy nhất cần thiết cho chúng Thanh văn vượt qua và mục đích của tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni khi xuất gia, thọ giới cụ túc, phải tu tập thành tựu giải thoát ngay trong đời này, như ý nghĩa “Thế nào là một tỳ-kheo đắc giới cụ túc?” là người mà bản thể tỳ-kheo đã thành tựu do sự chứng đắc quả vị cứu cánh của Niết-bàn, tức các Thánh giả vô học. Trong học xứ ba-la-di, Phật đã dạy rõ, vị nào bất lực yếu đuổi, không kham nổi đời sống của một tỳ-kheo thì phải nói lên (dubbalyaṃ anāvikatvā, giới luy bất tự hối 戒羸不自悔) (Tứ phần 1, p. 571a2; Thập tụng 1, p. 1c22, v.v.), đồng nghĩa là nếu một người nào đó mà thấy rằng khả năng mình không thể nhận giới của tỳ-kheo thì phải thối bộ làm sa-di, không được ép bản thân thọ cụ túc rồi phạm giới.

Nếu ngay trong đời hiện tại, họ không kham nổi, nghiệp chướng nặng nề, tiếp tục để họ ở trong đạo không có ích lợi gì, buộc cho họ về nhà gieo trồng phước thiện đời sống cư sĩ. Đây là lý do thứ nhất.

2. Khi Phật chế giới, với 10 mục đích. Mục đích 1, 2, 3 là nhắm đến Tăng-già hòa hợp, thanh tịnh, an lạc. Mục đích 4 và 5 là làm cho tín đồ chưa có niềm tin phát sinh niềm tin, phát sinh rồi càng lúc càng tăng trưởng. Cuối cùng, nói đến sự tu chứng chính là mục đích thứ 8, thứ 9: người xuất gia phải đoạn tận hữu lậu ngay đời hiện tại và vị lai, sau đó hướng đến lý tưởng cứu cánh làm cho Chánh pháp cửu trụ ở đời là mục đích thứ 10.

Do đó, sự thanh tịnh của mỗi tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni trong việc giữ gìn các điều học của giới bổn là bản chất của Tăng mà cũng là sự thanh tịnh của Tăng; bởi vì tập thể Tăng-già không phải là một bản thể trừu tượng, mà nó là một hợp thể của nhiều cá thể. Tập thể này được cấu trúc trên giới thể của mỗi tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni chưa bị vỡ. Một tập thể bị nứt rạn thì chẳng khác nào một con người bệnh hoạn, thương tích, bại liệt, không thể hoàn tất sự việc gì đáng kể. Đây là lý do thứ hai thời Phật không cho sám hối.

(còn tiếp)

QUAN ĐIỂM PHẬT GIÁO BỘ PHÁI VỀ TÍNH DỤC.

Tâm Nhãn

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận