Sách mới “Thể nhập Chánh pháp Lăng-già”

LỜI NÓI ĐẦU

Thể nhập Chánh pháp Lăng-già là một trong những bản kinh căn bản của Du-già hành tông thuộc Phật giáo đại thừa. Về văn bản, Truyền bản Phạn văn xưa nhất hiện có là bản Lankāvatārasūtra (ký hiệu N) do Bunyiu Nanjio sao chép vào năm 1883 từ thủ bản lấy được ở Nepal của thư viện Royal Asiatic Society of Great Britain, London, sau đó tham khảo các thủ bản Phạn văn khác cũng như các bản Hán dịch và Tạng dịch, để hiệu chính và biên tập lại, rồi được đại học Otani công bố năm 1923 và xuất bản năm 1956. Truyền bản Hán dịch hiện còn, theo Khai nguyên lục, gồm 3 bản. Thứ nhất là Lăng-già a-bạt-đa-la bảo kinh 4 quyển, một phẩm do Gunabhadra dịch năm 443, đời Lưu Tống (ký hiệu T), thứ hai là Nhập Lăng-già kinh 10 quyển, 18 phẩm, do Bodhiruci dịch năm 513, đời Bắc Ngụy (ký hiệu Ng), và thứ ba là Đại thừa nhập Lăng-già kinh 7 quyển, 10 phẩm, do Sikşānanda dịch trong khoảng 700-704, đời Đường (ký hiệu Đ). Trong ba bản Hán dịch này, bản đời Đường gồm 10 phẩm tương đương với 10 chương của Phạn bản Nanjio biên tập. Bản do Gunabhadra dịch chỉ có một phẩm tên là Nhất thiết Phật ngữ tâm, tương đương với chương hai đến chương tám của bản Nanjio, không có chương một, chín và mười. Nhưng đây là bản có chuyển ngữ sát với Phạn bản của Nanjio nhất.

Về nội dung, một cách tổng quát, Kinh Lăng-già chủ yếu trình bày và chứng minh sự vô ngã của con người và sự vật bằng đạo lý duy tâm Phật dạy, tức đạo lý nói về mối tương quan hai chiều giữa hai duyên tố thức và danh sắc trong sự chuyển biến của nghiệp để hình thành đời sống con người. Qua sự trình bày ấy, Kinh đề cập đến hầu như toàn bộ những vấn đề cốt lõi của đạo Phật, và phê phán các quan điểm về bản thể học lập cước trên khái niệm hữu-vô của một số bộ phái Phật giáo cũng như các học thuyết tôn giáo và triết học Ấn-độ thời bấy giờ, đúng như cái tên Sarva-dharmasamuccaya được đặt cho chương hai, mà ngài Gunabhadra đã chuyển dịch sang Hán văn là “Nhất thiết Phật ngữ tâm”. Với nội dung ấy, dưới lăng kính Duy tâm, Lăng-già không những xác định nền tảng và tác dụng của mối quan hệ giữa nhận thức và thực tại trên phương diện thường nghiệm cũng như tuyệt đối (tức chân đế và tục đế), mà còn giúp người đọc có một cái nhìn độc đáo và rõ ràng hơn đối với những vấn đề chính yếu đức Phật đã dạy như nguyên lý duyên khởi, tứ đế, luân hồi, giải thoát, sanh tử, niết-bàn, tự tính, tánh không, Như lai tạng, vô sanh, bất nhị, nhận thức học, luận lý học, cho đến thiền học v.v.., mà đặc biệt còn dẫn dắt người đọc trở về trạng thái uyên nguyên của đạo Phật, là trạng thái tự thân thể chứng tuệ giác và giải thoát mà chính đức Phật đã tự mình chứng nghiệm dưới cội bồ đề qua việc quán sát lý duyên khởi 12 chi. Chính yếu tố này giúp người đọc hiểu chính xác ý nghĩa cụm từ “giáo ngoại biệt truyền” của thiền học tại Trung-quốc, cũng như hiểu lý do vì sao kinh Lăng-già lại có một vị trí đặc biệt trong thiền học của Trung-quốc, Nhật-bản và Việt Nam, và vì sao các phái thiền học tại những nơi ấy, dẫu dựa vào kinh Lăng-già, Kim cương, lại tự xưng mình là giáo ngoại biệt truyền.

Có một vị trí và ảnh hưởng quan trọng như vậy trong lịch sử Phật giáo đại thừa nói chung, và thiền học nói riêng, nhưng vì được biên tập trong khoảng cuối thế kỷ IV TL, giai đoạn mà Phạn ngữ tiêu chuẩn được phát triển ở đỉnh cao với những đặc điểm của nó, Kinh theo xu hướng chung đã sử dụng các phức hợp từ gồm rất nhiều từ đơn liên kết lại thành một tập tin nén, mà việc giải mã nó để diễn tả chính xác ý nghĩa Kinh muốn truyền tải không phải là một việc đơn giản, nếu không muốn nói là hết sức phức tạp và dễ sai lệch. Sự tình này cùng với thể văn nghị luận, và những sai sót khi sao chép, đã làm cho bản kinh trở thành khó hiểu với những độc giả chưa nắm vững các thuật ngữ chuyên môn của Du-già hành tông cũng như giáo lý căn bản của Đạo Phật. Đây chính là lý do giải thích tại sao dầu có đến 3 bản Hán dịch để đối chiếu, người đọc xưa nay nếu chỉ dựa vào truyền bản Hán dịch, vẫn cảm thấy bản kinh rất khó hiểu, lắm khi rất bối rối vì những khác biệt đến trái nghịch nhau giữa các dịch bản Hán văn.

Chúng tôi may mắn có trong tay ấn bản Phạn văn Kinh Lăng-già do Bunyiu Nanjio biên tập, nên đã có cơ hội đọc giải nguyên bản Phạn văn của kinh, tham chiếu với 3 bản Hán dịch và cả bản tiếng Anh (ký hiệu S) do Suzuki dịch.

Kết quả của những năm tháng học hỏi ấy là bản Việt dịch Kinh thể nhập chánh pháp Lăng-già này. Dựa vào kinh nghiệm bản thân về những vấn đề vấp phải khi đọc giải bản Kinh, chúng tôi có ý định giúp Phật tử Việt Nam có điều kiện tiếp cận với nguyên bản Phạn văn của Kinh, nên ngoài phần Việt dịch chính văn, chúng tôi biên soạn thêm phần lược giải, trong đó tóm tắt nội dung chính của mỗi chương. cùng chú thích, ghi các từ khóa của mỗi chương và liệt kê các từ vựng trong Kinh.

Hoàn thành được công việc biên dịch bản kinh này, trước hết là nhờ Giáo sư Trí Siêu – Lê Mạnh Thát đã chỉ dạy cho tiếng Phạn, thứ đến là sự giúp đỡ quý báu của thầy Quảng Nhã và Quảng Tuấn, những vị đã giúp chúng tôi đánh vi tính các chú thích Hán văn và đọc lại bản thảo. Chúng tôi xin bày tỏ lòng chân thành tri ân đối với Giáo sư và hai Thầy.

Dẫu nỗ lực hết sức, nhưng với khả năng hạn chế của mình, nếu bản dịch có những sai sót ngoài ý muốn, chúng tôi mong có được những góp ý của các bậc cao minh, giúp cho bản Việt dịch này của Kinh Lăng-già được hoàn hảo hơn.

Cuối cùng xin hồi hướng công đức biên dịch Kinh này cho sự trường tồn của Phật Pháp và an lạc cho muôn loài.

Quảng hương già-lam, Mạnh đông Pl.2566
Nguyên giác

MỤC LỤC

TẬP I

Lời nói đầu

Mục lục

Chương 1: Ravāna cầu thỉnh

Chương II : Tổng tập tất cả các pháp qua 36.000 tụng

Chương III : Tính chất vô thường

Chương IV : Hiện chứng

Chương V : Mắc lỗi cho Như lai là thường hoặc vô thường

Chương VI : Pháp sát-na

Chương VII : Hóa thân

Chương VIII : Ăn thịt

Chương XI : Đà la ni

Chương X : Chỉnh củ

TẬP II

Giới thiệu Kinh Lăng-già

A. Văn bản

B. Thời kỳ biên tập

C. Bố cục

D. Nội dung cương yếu

E. Một số giáo lý quan trọng trong kinh Lăng-già

Nội dung chi tiết

Chương I : Rāvana thỉnh cầu

A. Nội dung

B. Từ khóa

Chương II : Tổng tập tất cả các pháp gồm 36.000 tụng

A. Nội dung

B. Từ khóa

Chương III : Tính chất vô thường

A. Nội dung.

B. Từ khóa.

Chương IV : Hiện chứng

A. Nội dung

B. Từ khóa

Chương V : Sự phạm lỗi cho Như lai là hoặc vô thường

B. Từ khóa

A. Nội dung

Chương VI : Pháp sát-na

A. Nội dung

B. Từ khóa

Chương VII : Hóa thân

A. Nội dung

B. Từ khóa

Chương VIII : Ăn thịt

A. Nội dung

B. Từ khóa

Chương IX : Đà-la-ni

A. Nội dung

B. Từ khóa

Chương X . Chỉnh cú

A. Nội dung

B. Từ khóa

Chú thích

Chương I

Chương II

Chương III

Chương IV

Chương V

Chương VI

Chương VII

Chương VIII

Chương X

Phụ lục

Từ vựng

Sách dẫn

“Kinh điển Phật giáo được lưu truyền bằng 4 ngữ hệ chính gọi là 4 thánh ngữ, gồm, tiếng Phạn, tiếng Pāli, tiếng Hán và tiếng Tây Tạng. Tam tạng của phái Tāmra-śāṭīya (Đồng diệp bộ) được lưu truyền bằng tiếng Pāli, và theo truyền thuyết được Mahinda truyền vào Tích Lan từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Tam tạng bằng tiếng Phạn được lưu truyền bởi các bộ phái như Hữu bộ, Đại chúng bộ, Đàm-mô-đức v.v.., và đặc biệt của Phật giáo Đại thừa, và đã được dịch sang tiếng Hán kể từ thế kỷ thứ II sau Tây lịch trở đi.

Riêng kinh điển Phật giáo tiếng Tây Tạng được dịch từ tiếng bản Phạn hoặc tiếng Hán sang. Khái quát về lịch sử truyền thừa kinh điển Phật giáo như thế để thấy rõ vai trò quan trọng của tiếng Phạn trong việc tiếp cận và nghiên cứu chuyên sâu hệ thống kinh điển Phật giáo, nhất là trên phương diện văn bản học. Bởi vì không kể kinh điển Phật giáo bằng tiếng Hán và tiếng Tây Tạng đều liên hệ trực tiếp với tiếng Phạn, vì được dịch trực tiếp từ tiếng Phạn sang, mà ngay cả đối với kinh điển thuộc tạng Pāli, để nắm vững một thuật ngữ Pāli, người ta cần truy về nguồn gốc tiếng Phạn của nó.

Như vậy, tiếng Phạn chính là chiếc chìa khóa mở cánh cửa đi vào ngôi nhà Phật pháp”.

Hòa thượng Thích Nguyên Giác

Sách được ấn hành tại Quảng Hương Già Lam, Saigon.

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận