Đệ nhất Tăng thống (1964-1973) Hòa thượng Thích Tịnh Khiết (1890-1973)
Pl. 2513, Kỷ Dậu (1969)
Trong Thông Điệp Phật Đản 2513, Kỷ Dậu (1969), được gọi là “Thông Điệp Vì Sứ Mệnh Hòa Bình và Hóa Giải”, Ngài đã khẳng định: “Lịch sử đã chứng minh, dân tộc Việt Nam có sức hóa giải bền bỉ phi thường. Sức hóa giải đó là bản chất của dân tộc và cũng chính là bản chất Phật Giáo, vì Phật Giáo được xây dựng trên tinh thần trí tuệ, từ bi và hùng lực. Việt Nam vượt qua được giai đoạn bị đồng hóa là nhờ ở đức bao dung, sự đãi lọc và lòng kiên trì phát triển. Chính nhờ ở những căn bản quý giá đó mà đã hơn một lần Phật Giáo trợ duyên cho dân tộc hóa giải những lối sống xuất thế và nhập thế của các luồng tư tưởng Đông Phương, tạo ra sự quân bình tư tưởng cho Việt Nam dưới thời tự chủ Lý-Trần, kéo dài trên ba thế kỷ”.
Đệ nhị Tăng thống (1973-1979) Hòa thượng Thích Giác Nhiên (1878-1979)

Đệ tam Tăng thống (1979-1991) Hòa thượng Thích Đôn Hậu (1905-1991)
Pl. 2526, năm 1982
THÔNG ĐIỆP ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN 2526
của Hòa Thượng Chánh Thư Ký, Xử lý Viện Tăng Thống.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
– Thưa chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa khả kính.
– Hàng Giáo Phẩm trong Hội Đồng Lưỡng Viện.
– Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
– Chư Đại Đức Tăng Ni, Phật Tử Ban Đại Diện Giáo Hội các cấp.
– Cùng toàn thể Phật Giáo đồ, những người con trung kiên của Giáo Hội ở trong nước cũng như ngoài nước.
Mùa Phật Đản lại về. Cùng với Phật Giáo đồ trên toàn thế giới, cũng vào ngày giờ này, chúng ta thành kính đón mừng lễ Đản Sanh của Đức Từ Phụ trong niềm hân hoan và lòng biết ơn vô hạn đối với Ngài, đối với đạo lý giải thoát như thật do Ngài vạch ra. Trong niềm hân hoan và biết ơn vô hạn đó, tôi xin gửi đến chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tang Ni và đồng bào Phật Tử trong cũng như ngoài nước, lời cầu chúc an lành, lời kêu gọi hòa hợp và tiến tu.

Đức Phật ra đời vì một đại sự duy nhất là mở bày con đường giác ngộ tri kiến Phật cho tất cả chúng sanh thấy lại diện mục xưa nay của bản thân mình, của đồng loại mình, để phá vỡ những trói buộc do nhận thức mê mờ, tình cảm mù quáng, do ý chí xung đột bủa vây mà vươn lên thành bậc Giác Ngộ.
Động cơ của sự ra đời để mở bày con đường giác ngộ ấy, chính là lòng từ bi vô hạn đối trước những nỗi khổ đau đang đè nặng lên thân phận kiếp người. Thật vậy, dưới ánh sáng của Phật Pháp, chỉ khi nào tình thương của mọi người, của chính mình thương lấy mình và thương nhau, chỉ khi nào phá vỡ được những trói buộc đã nói trên, con người mới thực sự sống hòa bình, an lạc. Cư xử với nhau trong tình huynh đệ tương thân, bình đẳng là mỗi từng bước một tiến lên địa vị giác ngộ của Phật Đà.
Chúng ta càng vững tin hơn, vì 2526 năm lịch sử trôi qua, đã kéo theo biết bao sự nghiệp vĩ đại, kiêu hùng của các nền văn minh, văn hóa của loài người chìm sâu trong bóng tối, nhưng với đạo Phật thì vẫn mãi mãi còn đó. Vẫn Sống và vẫn Sáng. Sự hiện diện của đạo Phật trong cuộc sống con người là nhằm mục đích thực hiện chân hóa, thiện hóa, mỹ hóa cuộc đời mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Do những nhân duyên ấy, nên đạo Phật truyền bá tới đâu cũng được con người hân hoan đón nhận, coi như sự phát triển của chính mình.
Khi đạo Phật truyền vào nước ta, đã được ông cha ta niềm nở đón nhận, phát huy thành một lối sống, đặt nền móng cho sự hình thành một truyền thống dân tộc lành mạnh, biến con người Việt Nam bình dị thành những anh hùng, kiên trì, rộng lượng của những thời đại Lý, Trần.
Cụ thể hóa trong thực tế, đạo Phật đã là chất liệu xây dựng những nếp sống văn minh, tương thân, tương trợ, xuyên qua đời sống Lục Hòa của Tăng Già. Sống Lục Hòa tức là sống hòa hợp một cách chân thành, tha thiết đến sự nghiệp chung, nhưng không bỏ qua những yêu cầu chính đáng của từng cá thể con người.
Ôn lại lịch sử đạo Phật tại Việt Nam, chúng ta sẽ rút được những kinh nghiệm quí báu của sự hòa hợp. Có sống hòa hợp như thế mới mong làm tròn nhiệm vụ của Phật Tử đối với đại sự mở bày tri kiến Phật của Đức Từ Phụ, mới mong làm nên những sự nghiệp ích nước, lợi dân. Điều này có nghĩa, sống hòa hợp là điều kiện cần yếu cho sự tiến tu và sự tiến tu chỉ có thể thực hiện được nếu có sống hòa hợp. Chính vì tinh thần hòa hợp và nhu cầu tiến tu đó mà Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất đã ra đời và đã từng làm rạng rỡ thêm những trang sử vàng son của Dân Tộc và Đạo Pháp. Cho nên để thiết thực đón mừng Khánh Lễ Phật Đản năm nay, tôi mong mỏi chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni các cấp Giáo Hội, cùng toàn thể Phật Giáo đồ trong và ngoài nước, hãy hòa hợp và tiến tu và dõng mãnh tiến tu để cùng nhau hòa hợp.
Giờ đây hoa Ưu Đàm đã nở, tôi mong cho hoa nở mãi và hương thơm của hoa tỏa khắp nơi, hầu đem lại một cảnh sắc tươi vui cho con người và cuộc đời.
Cầu xin Đức Phật soi sáng cho chúng ta.
Viện Tăng Thống ngày 4 tháng 4 năm 1982
Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống
Hòa Thượng Thích Đôn Hậu
(ấn ký)
Đệ tứ Tăng thống (1991-2008) Hòa thượng Thích Huyền Quang (1919-2008)
Thông điệp Phật đản PL. 2548 (Link)
Thông điệp Phật đản PL. 2550 (Link)
Thông điệp Phật đản PL. 2551 (Link)
Thông điệp Phật đản PL. 2552 (Link)
Thông điệp Phật đản PL. 2544 (Link)
Đệ ngũ Tăng thống (2011-2020) Hòa thượng Thích Quảng Độ (1928-2020)
Thông điệp Phật đản PL. 2562

Phật lịch 2562 Số 09/TT/VTT
THÔNG ĐIỆP PHẬT ĐẢN P.l. 2562
của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch chư tôn Giáo phẩm, Hoà thượng, Thượng toạ, Đại đức Tăng Ni
Kính thưa toàn thể Phật giáo đồ trong và ngoài nước,
Thưa quí liệt vị,
Phật Đản là ngày đức Phật ra đời, cũng là ngày nhân gian hân hoan đón nhận bức Cẩm nang, như linh kiếm, trừ diệt vô minh, đau khổ, mở ra kỷ nguyên giác ngộ giải thoát. Kể từ năm 1999, Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua dự thảo Nghị quyết « Công nhận quốc tế về ngày Lễ Vesak tại trụ sở Liên Hiệp Quốc và các văn phòng liên hệ ».
Khởi phát từ một địa điểm nhỏ bé ở Ấn độ chẳng ai hay biết, nay Đạo nhiệm mầu Cứu Khổ – Giác ngộ lan truyền khắp hành tinh trái đất, với sự tôn vinh Phật đản của gần hai trăm quốc gia trên thế giới đại diện tại LHQ. Người Phật tử không còn riêng lẻ từng địa phương, quốc thổ, chùa viện, chào đón Khánh đản đức Thích Ca Mâu Ni Phật, mà là toàn thế giới, từ trụ sở chính thức LHQ ở Nữu Ước, Hoa Kỳ, đến những Văn phòng LHQ liên hệ trên năm châu. Và cũng từ đó, mỗi năm LHQ đều ban hành Thông điệp Phật Đản ca ngợi đức Thế tôn và giáo lý của Ngài, như ông Tổng Thư ký LHQ António Guterres phát biểu qua Thông điệp Phật Đản năm nay :
« Thế-giới-quan Phật giáo dạy chúng ta hãy xem chúng ta như một bộ phận của thế giới, chứ không là chủ nhân ông của thế giới. Phật giáo nhấn mạnh tinh thần bất bạo động như sức mạnh của hoà bình. Chúng ta thấy rõ lời dạy của Đức Phật thích hợp như thế nào, qua các công trình hôm nay của LHQ, từ việc kêu gọi cho hoà bình, cảnh báo sự biến đổi khí hậu, cho đến nhân quyền. Hơn bao giờ hết, các cộng đồng Phật giáo cũng như tất cả chúng ta phải thâm nhập mỗi ngày lời dạy của đức Phật về khoan dung, thông cảm và nhân bản.
« Chúng ta phải đối kháng với những ai tìm cách biến dạng tiếng gọi tình thương thành tiếng thét hận thù ».
Ánh Đạo Vàng đang chiếu sáng khắp cõi vô minh, bạo hành, tranh chấp, cố tín, khai thị cho sự tỉnh thức huynh đệ, thoát ly mọi mê mờ, tham luyến.
Trong hoàn cảnh hiện tại, người Phật tử Việt Nam còn phải sống trong tình trạng bất an, ức chế, nghèo khốn dưới mức tri túc ; đến như Giáo hội cũng bị lũng đoạn, thử thách như ngàn cân treo sợi tóc. Nhưng thấm nhuần giáo lý Từ Bi – Trí Tuệ, chúng ta không bi quan, yếm thế. Người Phật tử nhìn vào thực tại nguy khốn, để cải hoá thành thực tại an lạc, tự tại. Đại hùng, đại lực, đại từ bi là sức mạnh của đạo Phật để cải hoá bất cứ quốc gia bạo hành, khủng bố nào, thành quốc thổ thanh tịnh, từ bi.
Mỗi Phật tử đã quy y, sống theo ngũ giới và thập thiện, là một Ngọn Đèn vô tận. Vô tận của Ngọn Đèn là vô tận của sự Giáo hoá đạo Vô thượng. Mỗi người Phật tử được nghe Pháp, đem Pháp mình thâm nhập nói lại cho trăm nghìn người được nghe, được hiểu như mình, đắp đổi cho nhau đến vô tận. Giống như dùng lửa Ngọn Đèn, mồi sáng trăm nghìn Ngọn Đèn khác nơi nhân thế. Nhờ vậy, vô minh, bóng tối sẽ được soi sáng. Ánh Sáng Đạo Vàng chẳng bao giờ tắt.
Đó là Pháp môn Vô Tận Đăng, mà tôi mong mỏi chư Tăng, Ni, Phật giáo đồ trong và ngoài nước đem ra thực hiện hằng ngày, trong bất cứ hoàn cảnh, quốc độ nào, để hiến cúng và báo ân Phật.
Xin chư liệt vị hãy tăng trưởng tín tâm, kiên trì Phật hạnh, đem Lục hoà ngăn chận mọi tranh chấp, phân hoá, để xây dựng Đạo pháp và Quê hương.
Trong giây phút thiêng liêng của ngày Đại lễ, chư tôn đức Tăng, Ni, cùng toàn thể Phật giáo đồ trong và ngoài nước, hãy dành một phút tưởng niệm cho các vị Thánh Tử Đạo, và những ai đã hy sinh để bảo vệ chủ quyền Dân tộc, xiển dương Chánh pháp.
Nam Mô Trung Thiên Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thanh Minh Thiền Viện, Saigon Ngày Phật Đản
Đệ Ngũ Tăng Thống,
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ
Thông điệp Phật đản PL. 2563
(Link)
Đệ lục Tăng thống (2020-2023) Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ (1943-2023)
HT. Tuệ Sỹ: “Đại lễ Phật Đản PL.2565 cùng đọc lại Huấn Thị An Cư của Đức Đệ Tứ Tăng Thống – Trưởng lão HT Thích Huyền Quang” (Link)
Tâm Thư Phật Đản Phật Lịch 2566 (Link)
Thông điệp Phật đản 2567 (Link)
Đọc lại thông điệp Phật Đản của GHPGVNTN qua các đời Tăng Thống
TÂM NHƯ CHÁNH ĐẠO
Mỗi mùa Phật Đản trở về, giữa hương trầm nghi ngút và sắc sen dịu vợi, người Phật tử Việt Nam không những đang tưởng niệm sự thị hiện của Đức Thế Tôn, mà còn lắng nghe một dòng âm thanh thâm trầm mà bền bỉ – âm thanh của Chánh pháp thấm vào lòng thế sự, của một truyền thống chưa từng bặt tiếng giữa những đợt sóng cuồn cuộn của thời cuộc. Dòng âm thanh ấy chính là những lời Thông điệp Phật Đản được chư vị Tăng Thống GHPGVNTN tuyên thuyết suốt hơn nửa thế kỷ, như nhịp tim âm thầm của một thực tại không hình tướng nhưng sống mãi trong tâm linh dân tộc.
GHPGVNTN không phải chỉ là định danh của một cơ cấu tổ chức, mà là dấu ấn của một con đường: con đường được khởi dựng bằng giới – định – tuệ; được nuôi dưỡng bằng bi – trí – dũng; và được gìn giữ bằng sự im lặng nhẫn nại nhưng kiên cường của những bậc đạo sư thâm trầm như những cội tùng già giữa núi sâu. Qua từng mùa Phật Đản, những đóa hoa sen mọc lên từ bùn của khổ lụy vẫn nở đều, không vì ai ngợi ca, không vì thời thế thuận lợi – mà chỉ vì hạnh nguyện chưa từng phai.
Khi Phật giáo bước vào giai đoạn thử thách lịch sử, bậc Tăng Thống đầu tiên – Đại Trưởng lão Hòa Hòa thượng Thích Tịnh Khiết – đã hiện thân như một dòng nước mát giữa những ngày oi nồng của xung đột và rối ren. Không bằng lời hùng biện, không bằng biểu ngữ, mà bằng sự hiện diện nghiêm trì và khiêm cung, Ngài đã truyền vào lòng hàng triệu Phật tử một cảm nhận sâu xa rằng đạo Phật không phải là cổ xe được đẩy đi bởi thời thế, mà là con đường tự nội, dẫn về nơi an nhiên và bất động giữa cuồng nộ. Trong những Thông điệp đầu tiên của Ngài, người ta không nghe thấy sự tranh biện, mà thấy một lời mời gọi dịu dàng: trở về với giới hạnh, với từ bi, với sự tỉnh thức như cội nguồn của sự sống.
Tiếp nối mạng mạch ấy, Đại lão Hòa thượng Thích Giác Nhiên – bậc Trưởng lão hiền triết – đã giữ cho ngọn đèn chánh pháp không tắt giữa gió lốc thời đại. Với phẩm cách trầm mặc và sự tinh tế của một người hiểu sâu về lịch sử và dòng tâm linh dân tộc, Hòa thượng nhấn mạnh rằng GHPGVNTN không phải là tổ chức được dựng nên từ khái niệm, mà là sự tiếp nối của ngàn năm Phật Việt – từ Khuông Việt, Mãn Giác cho đến Tuệ Trung và Trúc Lâm…. Trong các thông điệp của Ngài, Phật giáo hiện lên như một lớp đất mịn vỗ về gốc rễ văn hóa Việt, nơi mỗi con người đều có thể chạm vào đạo, sống trong đạo, và mở ra tương lai bằng lòng từ và trí sáng.
Rồi đến Hòa thượng Thích Đôn Hậu – bậc Thầy mà người ở Huế và cả miền Trung thương kính như bóng mát trong những ngày lửa đạn. Ngài không nói nhiều về triết lý, nhưng mỗi hành động của Thầy là một câu kệ sống động. Khi chùa Linh Mụ trở thành nơi nương tựa cho những người chạy loạn, khi bữa cơm chay của Ngài san sẻ cho người sa cơ cả hai bên chiến tuyến, thì đạo Phật không còn là biểu tượng, mà là thực tại từ bi hiện tiền. Thông điệp Phật Đản 2526 của Ngài được viết không phải để thuyết phục, mà để lắng dịu – như một bài kinh đọc giữa đêm dài, như lời mẹ ru trong cơn mộng dữ, mong cho con người biết dừng lại, biết thương nhau, và biết quay về cội nguồn.
Và rồi tiếp theo, giữa những năm tháng khó khăn sau biến cố lịch sử, Hòa thượng Thích Huyền Quang lặng lẽ nâng đỡ một thế hệ Phật tử bằng lời lẽ hiền hòa và ánh mắt trìu mến. Ngài không đấu tranh bằng cường ngôn, mà bằng lòng nhẫn nhục và tín tâm không đổi. Những thông điệp Phật Đản của Ngài được viết từ nơi lưu đày, nhưng không mang dấu vết của giận hờn hay oán trách. Chúng là những lời thì thầm sâu thẳm, rằng một người con Phật dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ lấy ánh sáng trong tâm, như giữ một ngọn đèn nhỏ trong gió – không để tắt, không để lạc hướng.
Chí đến Hòa thượng Quảng Độ – một tiếng nói dũng mãnh giữa cõi lặng. Thầy không ngần ngại gọi tên sự thật, không né tránh những góc khuất của xã hội và đạo pháp. Thông điệp Phật Đản của Thầy là những lời cảnh tỉnh, mời gọi con người bước ra khỏi vùng an toàn của tín ngưỡng hình thức, để nhìn thẳng vào những vết thương, và chọn lấy hành động vị tha thay vì chờ đợi một cứu rỗi mơ hồ. Với Thầy, Phật giáo là can đảm bước vào đời, không phải để cải hóa người khác, mà để giữ nguyên ánh sáng trong mình giữa chốn vô minh.
Để rồi từ nơi ánh sáng trầm mặc của một đời thâm tu như thế, Hòa thượng Tuệ Sỹ tiếp nối để viết nên những thông điệp như thả xuống một nhánh sen giữa dòng nước đục. Tư tưởng của Thầy sâu như lòng đất, nhẹ như gió, nhưng thấu suốt như pháp kiếm cắt qua màn sương dày. Trong từng chữ, từng câu, người đọc không những thấy được Đức Phật – mà còn gặp chính mình, giữa thời đại đầy hoang mang. Thông điệp Phật Đản 2567 của Hòa thượng Tuệ Sỹ đã gợi lại sự thị hiện của Đức Từ Phụ, đồng thời đặt câu hỏi: “Ai đang thật sự sống? Ai đang tỉnh thức?” Bằng giọng văn kết tinh từ văn hóa Đông phương và triết lý bất nhị, Thầy đưa chúng ta ra khỏi khuôn sáo tôn giáo, để bước vào thực tại hiện tiền của tự thân: nơi Phật là tâm, là người, là hạt giống bất tử.
Bấy giờ, từ bậc Tăng Thống đầu tiên đến hôm nay, dù cách biểu đạt có khác nhau, nhưng tất cả đều cùng bước đi trên một nẻo đạo duy nhất – nơi con người không tìm kiếm quyền lực, mà tìm lại chính mình; nơi Phật pháp không là giáo điều, mà là nhựa sống của từ bi, trí tuệ và tỉnh thức giữa cuộc đời. Những Thông điệp Phật Đản vì thế không phải chỉ là văn bản định kỳ, mà là những đóa sen nở từ tâm nguyện, từ hạnh nguyện, từ những đêm dài trăn trở vì Đạo.
Và nếu có người hỏi GHPGVNTN có còn tồn tại? Câu trả lời không nằm ở mặt pháp lý, mà ở những ai vẫn còn nghe được tiếng vọng của những lời Thông điệp ấy – trong lòng. Vì một Giáo Hội có thể bị tước bỏ danh xưng, nhưng một dòng tư tưởng được gầy dựng bằng giới hạnh và từ bi thì không thể xóa mờ.
Đằng sau mỗi lời Thông điệp ấy, từ Huế của Thầy Đôn Hậu, từ Bắc Trung phần của Thầy Huyền Quang, từ chốn ngục tù của Thầy Quảng Độ, đến mái hiên trầm mặc nơi Thầy Tuệ Sỹ ngồi viết – là một sự nhất quán không cần tuyên ngôn. Đó là niềm tin bất hoại vào tầm vóc siêu việt mà vẫn rất người của Đức Phật, như một Con Người thức tỉnh giữa thế gian, không vì quyền năng mà hiện hữu, không vì vinh danh mà giáo hóa – mà chỉ vì lòng bi mẫn đối với từng nỗi khổ, từng phận người. Chính từ niềm tin ấy, các Thông điệp chưa bao giờ chỉ nhắm đến nghi lễ, mà luôn là tiếng gọi trở về với bản thể tỉnh thức – một lời mời bước ra khỏi mọi mê mờ của chính mình.
Đó cũng là lời khẳng định sâu lắng về vai trò của đạo Phật trong đời sống xã hội và lịch sử, không phải như một tôn giáo ẩn cư, mà như dòng nước chảy xuyên qua từng gốc rễ văn hóa, từng cơn biến động chính trị, từng lằn ranh đau thương của dân tộc. Phật giáo trong các Thông điệp ấy không đứng ngoài, không lên án, cũng không dự phần vào phân tranh – mà là lực đỡ vô hình cho sự lành mạnh hóa con người, cho khả năng chữa lành và tái sinh một xã hội đã trĩu nặng tổn thương. Phật giáo ấy không mang danh “giải pháp”, mà là suối nguồn – nơi người ta có thể ngồi lại, uống một ngụm tỉnh thức, và bắt đầu thấy lại nhau bằng đôi mắt thương.
Và tất cả đều được khơi nguồn từ một tinh thần cứu độ không vị ngã, một tâm nguyện vô sở cầu. Trong mọi thời, thông điệp của GHPGVNTN không đặt trọng tâm vào mở rộng ảnh hưởng hay tranh thủ quần chúng – mà đặt trọng tâm vào giáo dục. Vì chỉ có giáo dục – theo nghĩa sâu xa nhất: khai mở nội tâm – mới là con đường dẫn người đến giải thoát thật sự. Đức Phật chưa bao giờ lập một đế quốc, mà chỉ dạy con đường. Các đời Tăng Thống cũng vậy – chưa bao giờ hướng đến quyền lực, mà chỉ nuôi dưỡng những con đường cho hậu lai bước tiếp. Những thông điệp ấy vì thế không phải để vận động, mà để gieo hạt. Không phải để kích động, mà để soi sáng.
Và cuối cùng, bao trùm tất cả là một niềm tin thầm lặng và không lay chuyển vào Tăng-già – không phải như một tổ chức, mà như hiện thân sống động của chánh pháp. Nếu chánh pháp là mặt trời, thì Tăng-già là bầu trời giữ cho ánh sáng ấy lan tỏa không vướng mây mù. Nếu chánh pháp là suối nguồn, thì Tăng-già là lòng đất giữ cho mạch nước không bị cạn kiệt. Trong mọi Thông điệp, dù hoàn cảnh có đổi thay, dù Tăng đoàn có lúc bị phân hóa, thì vẫn có một tiếng nói đồng lòng: hãy gìn giữ giới hạnh, hãy gìn giữ sự thanh tịnh và hòa hợp, vì đó là điều duy nhất giữ Phật pháp khỏi rơi vào hình thức và tục hóa. Và trong sự nhất tâm đó, Giáo Hội không nằm ở trụ sở, không nằm ở danh tướng, mà hiện thân trong từng vị Tăng Ni giữ giới, từng Phật tử giữ đạo – bằng sự sống hiền lành, trách nhiệm và lặng lẽ như hơi thở.
Phật lịch 2569, ngày 24 tháng 04 năm 2025
Lôi Am Ẩn Tự
Phật Việt sưu lục, đang cập nhật.