(PHẦN I)
I. NHẬP ĐỀ
Trời Châu âu, mùa hè không oi ả như khí trời ở Việt Nam. Mỗi buổi sáng thức dậy luôn thấy dễ chịu. Như thường nhật, ngày nào không đi học thì thong dong hơn, mở máy kiểm tra email và tin nhắn. Hôm rồi (thứ 4, ngày 6 tháng 8, 2025) là một ngày đặc biệt hơn mọi ngày, tôi nhận được hai tin nhắn từ Việt Nam, một Phật tử và một tu sĩ gửi đến, nội dung giống nhau, đó là văn bản PDF tiêu đề “GÓP Ý NHỮNG NHẬN ĐỊNH LIÊN QUAN LUẬT TẠNG TRONG LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VĂN HỆ BÁT NHÔ, tên tác giả, cho phép tôi giấu tên, tôi tạm tôn xưng “nhà Sư A”.
Trước khi đi vào ý chính, tôi nhập đề lung khởi một chút. Hơn 20 năm về trước, mỗi khi tôi vào Sài Gòn, thường tới thăm một học giả bút danh An Chi. Tôi ngưỡng mộ An Chi, bởi thời ấy ông giữ vai trò trả lời trong mục “Chuyện đông chuyện tây” trên tạp chí “Kiến thức ngày nay”. “Kiến thức ngày nay”, loại tạp chí này rất nổi tiếng và phổ biến một thời trước khi cáo chung. An Chi mất ngày 12 tháng 10 năm 2022.
Năm 2001, thầy Thát xuất bản tác phẩm “Lịch sử âm nhạc Việt Nam”, trong Chương ii (trang 90), thầy chứng minh bài “Việt Ca” là của người Việt sáng tác. Sau đó, học giả An Chi đã viết một bài phê bình nhận định của thầy Thát. Khi ấy, tôi có gặp thầy Thát hỏi rằng, sao thầy không lên tiếng hay viết gì đó để biện luận. Thầy nói, không xứng đáng để thầy mất thời gian vô việc như vậy, sau này người nào hiểu lịch sử tự khắc sẽ biết ai sai ai đúng; “nói với người khôn không lại; nói với người dại không cùng”.
Giờ “lịch sử” tái diễn, “bình mới rượu cũ”. Tác phẩm “LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VĂN HỆ BÁT-NHÔ của GS. Lê Mạnh Thát vừa mới xuất bản một, hai tháng gần đây (2025), giới độc giả khắp nơi trong nước rầm rộ đón nhận nhưng cũng đi kèm với nhiều lý lẽ bàn tán, phê phán.
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt”, với tinh thần xây dựng và trách nhiệm của người viết sử cũng như nghiên cứu Luật tạng, chúng tôi muốn góp ý để những người học Phật tại Việt Nam hiểu biết đúng đắn hơn. Người xưa có nói: “Biết mà không nói là bất nhân. Nói mà không nói hết là bất nghĩa”. Hoặc sự im lặng nội hàm có rất nhiều nghĩa, im lặng đồng nghĩa với khiếp nhược, im lặng tức đồng lòng, hay im lặng là không biết gì.
II. NGHỊ LUẬN BÀI VIẾT CỦA SƯ A
Bài viết “Góp ý những nhận định liên quan Luật tạng trong lịch sử hình thành văn hệ Bát-nhã” của Sư A, gồm 11 trang A4, chia thành 3 phần: 1. Tứ phần luật; 2. Bách Trượng thanh quy; 3. Lý hoặc luận; mục đích để nhận định và phê phán tác phẩm “Lịch sử hình thành văn hệ Bát-nhã (Sơ thảo I)” của GS. Lê Mạnh Thát. Chúng tôi sẽ đi trình tự, tách rời từng đoạn, phân tích và đặc biệt nhấn mạnh những đánh giá nhầm lẫn và sai sót của Sư A.
1. BUDDHADHARA VÀ BUDDHABHADRA
A. NHẬN ĐỊNH CỦA SƯ A
Khi giới thiệu Trường phái Pháp tạng, Văn hệ (Lịch sử hình thành văn hệ Bát-nhã) của thầy Thát ghi như sau:
“Tứ phần luật ĐTK22/1428 do Buddhayaśas và Buddhadhara dịch khoảng 408-413, tổ chức thành 4 phần:…”
Sư A góp ý:
“Dịch giả: Người phiên dịch Tứ phần luật từ Sanskrit sang Hán văn là Buddhayaśas (Phật-đà da-xá) và Trúc-Phật-Niệm (Tham khảo: 四分律, T.22, No.1428; 出三藏記集, T. 55, No. 2145, Tr. 20b22; 歴代三寶紀, T. 49, No. 2034, Tr. 80b12 v.v…) chứ không phải Buddhayaśas và Buddhadhara (Phật-đà-bạt-đà-la) như Văn hệ ghi. Buddhadhara có cùng Pháp Hiển dịch Ma-ha-tăng-kỳ luật chứ không dịch Tứ phần luật.”
B. ĐÍNH CHÍNH
Nhận định trên của Sư A nhầm lẫn giữa danh Tăng Trúc-Phật-Niệm và Buddhadhara. Thực tế cả hai danh xưng đều chỉ cùng một người, nhưng cách diễn đạt của thầy Thát là viết theo tiếng Phạn. Có lẽ Sư A chưa thông về Phạn ngữ mà đã vội vã cho rằng thầy Thát viết sai, và kết luận nói Buddhadhara là Phật-đà-bạt-đà-la (cùng Pháp Hiển dịch luật Tăng-kỳ).
Thực chất, Sư A đã nhầm lẫn Buddhadhara thành Buddhabhadra. Phật-đà-bạt-đà-la (佛馱跋陀羅) tiếng Phạn Buddhabhadra, dịch nghĩa Giác Hiền 覺賢. Buddhadhara (Phật Niệm) khác hoàn toàn Buddhabhadra. Sư vụt chạc phán định là thầy Thát viết sai tên nhân vật, còn thể hiện cho rằng thầy Thát viết nghiên cứu thiếu chín chắn. Nhưng thực chất, chính bản thân Sư đọc lộn xộn, nhầm lẫn nguy hiểm cả hai tên Phạn ngữ khác nhau mà không hề nhận ra.
Vì sao có hiện tượng nhầm lẫn này? Vì hiện tại trong Đại tạng, Từ điển và các tư liệu trên mạng điện toán, tên Trúc Phật Niệm chỉ được viết 竺佛念, không có tên Phạn. Mà tên Phạn Buddhadhara là do chính thầy Thát tự dịch từ Hán sang Phạn, vì thầy giỏi Phạn ngữ. Còn nhà Sư kia không thông Phạn ngữ, dù có cố gắng tra cứu cũng không thể tìm ra từ gốc, khiến cho “bất giác” lấy “râu ông nọ cắm cằm bà kia”.
Về nhân vật Buddhadhara, thầy Thát đã ghi rõ Buddhayaśas và Buddhadhara cùng dịch luật Tứ phần (tức Phật-đà-da-xá cùng Trúc Phật Niệm [竺佛念] dịch như theo lời của Sư A). Thầy Thát viết hoàn toàn chính xác. Vì sao?
Phân tích nghĩa tiếng Phạn của Buddhadhara: Buddha dịch Phật (佛), dhara dịch trì 持, hay chấp trì 執持; Buddhadhara nghĩa là gìn giữ Phật trong lòng, tức đồng nghĩa “niệm Phật”, thì Buddhadhara dịch “Phật Niệm”. Còn “Trúc 竺” là đề cập đến họ của ông, Phật Niệm gốc người Ấn. Do đó, Buddhadhara chính là Trúc Phật Niệm.
Lý do tại sao thầy Thát viết cả hai tên theo Phạn ngữ? Hai giả thuyết có thể đặt ra:
1/ Vì đó là cách viết tiêu chuẩn Hàn lâm nghiên cứu. Đối với tất cả Tam tạng pháp sư gốc Ấn đều nên viết như vậy. Ngoại trừ các nhà sư Trung Hoa, ví dụ như Huyền Trang (玄奘), thì các học giả phương Tây sẽ viết theo cách Pinyin: Xuanzang.
2/ Thêm một sự đoán định khác, tôi nghe thầy Tuệ Sỹ kể rằng, tác phẩm “Lịch sử hình thành văn hệ Bát-nhã” của thầy Thát viết năm 1968, đáng lý là luận án Tiến sĩ của thầy, chứ không phải cuốn “The Philosophy of Vasubandhu (Triết học Thế Thân)”, có lẽ thời ấy chưa hợp lúc để tác phẩm trở thành luận án Tiến sĩ và ra mắt độc giả. Nếu là luận án Tiến sĩ, tất nhiên phải viết theo cách Hàn Lâm quốc tế, nên nội dung có hình thức viết tên danh nhân theo từ gốc như thế.
Tại Sài Gòn hiện nay, theo tôi được biết, có hai cơ sở nhà chùa đào tạo nghiên cứu Luật tạng Phật giáo, cũng như miên mật nghiêm trì tịnh giới tu tập. Và Sư A là người điều hành đào tạo một trong hai cơ sở đó. Với “tư cách” này, Sư A đã mạnh dạn nặng lời chỉ trích, phê bình, cho rằng thầy Thát đã viết sai về luật và cố tình hạ thấp giá trị giới điều do Phật chế. Nhưng những gì Sư A dẫn chứng đã vô tình tự mình phơi bày cho người khác thấy rõ trình độ nghiên cứu luật học của Sư chưa đủ “chủng tính” Hàn lâm. Sự sai sót này sẽ còn tiếp tục được chứng minh ở những bài viết sau.
(PHẦN II)
2. GIẢI TRÌNH Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU LUẬT HỌC VIỆT NAM
Trong Phần I, chúng tôi đã chứng minh, Sư A đã nhầm lẫn giữa hai người “Buddhadhara” và “Buddhabhadra”. Thì có vài ý kiến đóng góp, không bằng lòng cách viết “Buddhadhara” – Trúc Phật Niệm của thầy Thát. Cho rằng thầy tự viết, tự sáng tạo như thế không hợp lý nghiên cứu. Ý kiến khác nêu: trong “Lịch sử hình thành văn hệ Bát-nhã”, trang 52, 53 viết Kumārajīva, trang 63 lại phiên âm La-thập. Thêm nữa, tên Trúc Phật Niệm, ở trước thì thầy Thát viết là Buddhadhara, đến trang 147 lại viết là Buddhanama; viết như vậy bất nhất, cần lời giải thích?
Những ý kiến đóng góp này đúng ra không nằm trong nội dung luận bàn của chúng tôi. Nhưng chúng tôi tôn trọng, ghi nhận, để thỏa mãn cho những vị học thuật chuyên môn, tôi đã điện đàm thưa hỏi thầy Thát. Thầy giải thích như sau:
Tên Trúc Phật Niệm, thầy viết “Buddhadhara”, thầy không tự sáng tạo, mà y cứ vào một nguồn tài liệu của học giả phương Tây, do thời gian quá lâu, từ năm 68 đến nay, 57 năm rồi, không còn nhớ. Và thầy nói thêm, tại sao tiếng Phạn, chữ niệm là “smriti” (念), lại viết “dhara” (nghĩa trì 持)? Vì Buddhadhara (Trúc Phật Niệm) là người trì luật, cho nên viết Buddhadhara, không viết Budhasmriti.
Còn tại sao Trúc Phật Niệm lại có một cách viết khác nữa: “Buddhanama”. Đây là cách viết của nhà nghiên cứu Prabodh Chandra Bagchi (1898 – 1956, một trong những nhà nghiên cứu Ấn-độ học và Trung Quốc học, thế kỷ 20). “Budha” là Phật, “nama (南無)” (namas) là quy kính, đảnh lễ (Phật); đồng nghĩa danh xưng “Phật Niệm”. Không gì nhầm lẫn.
Và tên gọi Cưu-ma-la-thập, có lúc ghi là Kumārajīva, có lúc ghi La-thập, vấn đề ở chỗ bản sách viết cho người Việt đọc, viết phiên âm, hay gọi tên gốc, không có gì sai sót. Như bộ luật Thập tụng (十誦律, Sarvāstivāda-vinaya), được dịch từ năm 404 đến năm 406, thời Hậu Tần (後秦), với sự tham gia Ti-ma-la-xoa (Vimalākṣa), Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva), Phất-nhã-đa-la (Puṇyatāra), Đàm-ma-lưu-chi (Dharmaruci). Nếu chúng ta để ý, văn bản này cũng dịch một số danh từ bất nhất. Ví dụ, tinh xá Jetavana, có khi dịch âm là Kỳ-hoàn (祇桓, Thập tụng 1, T23n1435, p. 7b04, quyển 5, p. 41b06 v.v.), có khi dịch là Kỳ-đà-bàn-na (祇陀槃那, Thập tụng quyển 8, p. 56c25, quyển 61, p. 468b21). Hoặc Śrāvastī, có khi dịch Xá-vệ (舍衛, Thập tụng 1, p. 1c22, quyển 2, p. 10c10 v.v.), có khi dịch Xá-bà-đề (舍婆提, quyển 8, p. 54a21, quyển 25, p. 182a22 v.v.) v.v…
Sau đó, thầy Thát nói thêm, thầy tiên liệu trước việc này, biết sẽ xuất hiện số người cực đoan, thiển cận, chống lại lý luận trong tác phẩm “Lịch sử hình thành văn hệ Bát-nhã sơ thảo I”, cho nên thầy đã “rào” trước trong lời Hậu từ, trang 501. Tôi trích lại nguyên văn:
“Nhóm này nghe đâu tin đó, quen thói tôn sùng tổ sư và quá khứ quá mức, nên khi nghe một người nào nói hay bàn đến một điều gì là lạ, chúng liền hung hăng lên tay múa kéng đập bàn đập ghế làm rộn rã ồn ào, là, người đó vì không thấu triệt lý thuyết này hay vì không hiểu tư tưởng nọ mới nói hay bàn những chuyện lạ lùng như thế. Chúng làm như chúng và chỉ chúng mà thôi là có thể hiểu, là đã nắm được ý tưởng then chốt của những tổ sư, của những thần thánh trong khi đó chính bọn chúng đã không bao giờ đọc đến một nguyên tác của một tổ sư, chứ đừng nói chi đến chuyện nhiều tổ sư thần thánh khác, và suy đi nghĩ lại xem nó có ý nghĩa gì, chứ đừng nói chi đến cái chuyện tự xưng mình đã nắm được chân lý đã thấu triệt và mọi người khác đều không thấu triệt, sai lầm. Chính vì cái hung hăng này mà sự sùng bái đã xảy ra trong nhóm này, và có đám đồ đệ ngồi hầu chung quanh, gục lên gục xuống ê a ca ngợi và sẵn sàng, nếu có ai phê bình đòi bỏ đi, tấn công người đó đủ mọi thứ từ chuyện muốn ‘phá giới’ cho đến chuyện muốn ‘xuyên tạc tổ chức’.”
(PHẦN III)
Trong Văn hệ Bát-nhã, lời Hậu từ (trang 502), thầy Thát ghi:
“Luật tạng là một lĩnh vực khá nhạy cảm… Tôi xin kính cẩn đặt ra trước người đọc một đề án nghiên cứu khách quan, mà tôi hy vọng là sẽ được đoán án như là sai, dẫu rằng tôi đang đinh ninh, vì đạo đức khoa học và tính trung thực trí thức, là, nó là đúng”.
Năm 1998, tôi bắt đầu tham gia dịch Luật tạng Phật giáo, sống bên cạnh Hòa thượng Tuyên luật sư Phật giáo Thích Đỗng Minh, ngài như hiện thân trường phái Chánh lượng bộ, quan điểm không được khinh suất dù là một tội nhỏ. Ngài, một đời nghiêm trì tịnh giới, Phạm hạnh sạch như băng tuyết. Sau khi Hòa thượng viên tịch, tôi tiếp tục hầu cận phụ tá thầy Tuệ Sỹ phiên dịch, làm việc bên cạnh một thiên tài Phật giáo, tư tưởng của tôi cũng chớm “bước ra khỏi lũy tre làng”, có cái nhìn về Luật tạng khác hơn, như thầy Thát nói “đạo đức khoa học”. Vì sao gọi là đạo đức khoa học, tức phải biết đâu là giới điều do Phật chế định, đâu là bộ phái biên tập thêm. Và triết thuyết nào là chân lý, triết thuyết nào phi lý, vô nghĩa, hoang đường. Chẳng hạn, trong luật Tứ phần (T22n1428, p. 736c04), ba-dật-đề 70, cấm tỳ-kheo-ni ăn tỏi. Câu chuyện trong học xứ này tường thuật, do trước đây có vị cư sỹ hứa cho tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà (偷羅難陀, Thera-nandā) tỏi để dùng. Sau đó vị cư sỹ đi vắng, Thâu-la-nan-đà sai sa-di-ni đến xin, người giữ vườn không dám tự ý cho, Thâu-la-nan-đà vẫn quyết định nhổ sạch tỏi của ông ta, đem về tinh xá phát cho mọi người. Qua câu chuyện này, thỉnh thoảng thầy trò ngồi thảo luận về luật, thầy Tuệ Sỹ nói, giới điều này nói Phật cấm là vô lý. Vì người nào quy phạm thì xử người đó, cớ sao lại cấm cả Tăng đoàn tỳ-kheo-ni không được ăn tỏi.
Về sau, tôi tiếp tục bước vào ngưỡng cửa chuyên sâu nghiên cứu cũng như viết lịch sử Luật tông, mới gần gũi thầy Mạnh Thát học hỏi. Lân cận bên thầy, điều làm tôi kinh ngạc, cứ ngỡ thầy chỉ giỏi về lịch sử Phật giáo Việt Nam, không ngờ thầy còn uyên bác cả Luật học. Do thầy là một bác sỹ cho nên nhìn nhận giáo nghĩa trong Kinh, Luật, Luận từ thực tế đạo đức khoa học đến siêu nghiệm tâm linh…; trước 75 và sau 75, đến tận bây giờ, ngoài thầy Tuệ Sỹ thì không còn ai có thể so sánh với thầy Thát được. Thầy từng đặt câu hỏi, tại sao toàn bộ giới luật nhà Phật đều do “Nhóm sáu tỳ-kheo” (ṣaḍ-vargīka-bhikṣu, 六群比丘 [Lục quần tỳ-kheo]) gây ra, khiến Phật chế giới mà nhóm này không bị đuổi. Có vị lý luận, do những tỳ-kheo này phạm lần đầu nên không bị đuổi. Thoáng nghe thì có lý nhưng không hợp với đạo đức của một con người mà xã hội ngày nay nhìn nhận. Bởi vì một người mà vi phạm chừng 3 lần còn được khoan dung tha thứ, nếu vượt ngưỡng 4, 5 lần là quá mức, không còn bình thường nữa, cần có sự nghiêm trị thích đáng để ngăn chặn, đằng này phát sinh đến số lần phạm gọi là lập kỷ lục. Tạng luật hình thành gần như chính “thành tích” của họ. Việc không bị trục xuất khỏi Tăng là một việc lạ?
Năm 2017, tôi bắt tay dịch tác phẩm “The Earliest Vinaya and The Beginnings of Buddhist Literature” của Erich Frauwallner. E. Frauwallner nói rằng: Những câu chuyện duyên khởi trong luật khiến đức Phật chế định giới điều khá dài dòng, như thường thấy ở phần đầu các tác phẩm Ấn-độ. Nhưng không ai xứng đáng với tên tuổi có thật trong những truyền thuyết như thế; nhiều nhất chỉ là câu chuyện đức Phật thu nhận con trai của Ngài là Rāhula vào Tăng đoàn. (E. Frauwallner, ibid., p. 78).
Đó là chúng ta thảo bàn về cụm từ “đạo đức khoa học” mà thầy Thát đề cập. Trong Thành duy thức giảng giải (sắp xuất bản), thầy Tuệ Sỹ có kể, trước 75, thầy và thầy Thát dành thời gian học cả đời lẫn đạo, khi ấy, có một số thầy trong chùa công kích, nói rằng: Giỏi như Tuệ Sỹ, Mạnh Thát, lần hồi không còn tin ông Phật nữa.
Nói như vậy không đúng, nếu chúng ta học hành đàng hoàng, có đẳng cấp chuyên môn, thì chúng ta mới thấy được ông Phật vàng ròng óng ánh, lung linh huyền ảo sau lớp vỏ bọc sơn son thếp vàng giả tạm mà các chùa đang thờ phụng hiện nay.
Cho đến bây giờ, tôi cứ nghĩ lịch sử đã sang trang, người học đạo trong chùa chững chạc hơn, đâu ngờ lịch sử đảo ngược ghê gớm gấp bội, người ta lại nặng lời, gọi thầy Thát là: “Tận cùng của sự tha hóa nhân cách!” Thầy Thát chỉ viết một cuốn sách, một công trình vĩ đại như thế, đã làm gì, có phải tội đồ của dân tộc Việt Nam hay không?
Thầy Thát đã nói, thầy viết “Lịch sử hình thành văn hệ Bát-nhã Sơ thảo I” mang tính đạo đức khoa học và tính trung thực trí thức. Tri thức là có quyền phê phán, tất cả mọi người đều có quyền phê phán. Thầy Thát phê phán được thì người khác cũng có quyền phê phán. Nhưng phê phán phải sáng tạo của thực chất giáo dục, phá đổ những thứ phù hiếm hoang đường, phi lý, dựng lại chân lý. Đừng lấy phê phán theo định thức cũ kỹ, cực đoan mà trù dập sự phê phán sáng tạo. Phê phán kiểu này, thầy Thát gọi là “nhóm biện giáo thủ cựu. Nhóm này nghe đâu tin đó.”
Phần này chúng tôi chỉ nói về đạo đức khoa học trong nền học thuật Phật giáo nói chung, nhìn nhận Luật tạng Phật giáo nói riêng. Kỳ tới, chúng tôi sẽ luận bàn tiếp, sao gọi là “Luật tạng là một lĩnh vực khá nhạy cảm”, đồng thời đánh giá thêm bài “Góp ý những nhận định liên quan Luật tạng… ” của nhà Sư kia.
(Còn tiếp)
Tâm Nhãn


