Bỏ phố lên rừng

Thủ đô New Delhi, trung tâm kinh tế và chính trị vào hạng lớn nhất của đất nước Ấn Độ, (một quốc gia đông dân, đa sắc tộc và đa tôn giáo nhất trên thế giới) nơi có đầy đủ tiện nghi đáp ứng nhu cầu cuộc sống, từ hạng thượng lưu ăn trên ngồi trước cho đến hạng thấp kém nhất trong xã hội Ấn.

Ở đây, ngoài những trung tâm hiện đại ra thì cách đó không xa là hình ảnh của những “gia đình ăn xin truyền thống”. Tuy sống xen lẫn vào nhau nhưng sợi dây giai cấp vẫn hiện hữu một cách hết sức rõ ràng và hầu như không thể xóa bỏ, mặc dù đã có nhiều cố gắng.

Cuộc sống ở đô thị nào cũng vậy, nhưng thủ đô của Ấn Độ có một nét khác biệt mà theo nhận xét riêng tôi thì chắc không nơi nào giống như vậy. Ngoài hình ảnh đông đúc náo nhiệt của người và xe cộ, thỉnh thoảng lại xuất hiện một vài chú voi to đùng, hoặc vài chú ngựa hiên ngang đi trên đường bất chấp xe cộ đông đúc ra sao, mà hình như những anh chàng nài ngựa, hay nài voi rất lấy làm thích thú và tràn ngập tự hào khi được mọi người đưa mắt nhìn (nhất là du khách nước ngoài). Tuy nhiên, con vật thiêng liêng và hiện hữu mọi lúc mọi nơi là khỉ (thần Hanuman của đạo Hindu), trước tòa nhà quốc hội cho đến những con hẻm… đâu đâu cũng có mặt của các vị thần này. Lắm lúc các vị thần này cũng quậy phá, ăn trộm thức ăn và thậm chí tấn công tín đồ của mình, hoặc bất cứ ai tỏ thái độ trêu chọc hay xua đuổi đến mức thái quá.

Đó là những gì mà tôi đã tận mắt chứng kiến, tuy không nhiều nhưng nó cũng góp một phần không nhỏ vào quyết định mang tính táo bạo và hơi khác thường của tôi đó là “bỏ phố lên rừng”.

Từ giã thủ đô ồn ào náo nhiệt, tôi khăn gói lên vùng núi Dharamsala thuộc phía bắc Ấn Độ. Hành trang mang theo là một chiếc vali quần áo cộng với một tương lai vô định. Tôi quyết định đi!

Trải qua mấy tháng làm quen với con người và khí hậu, tôi đăng ký vào trường Sarha (trường dành cho người Tây Tạng) để học tiếng Tây Tạng với nguyện vọng theo học Phật pháp trong chương trình giảng dạy của các tu sĩ theo truyền thống Kim Cang thừa.

Nói chung môi trường nơi đang ở rất hợp với tôi, yên tĩnh và thơ mộng. Xa xa có núi tuyết bao phủ, phía dưới là đồi thông xanh mượt, uốn lượn theo lưng chừng núi xen lẫn trong rặng thông xanh là những con đường trải nhựa ví như dải lụa vắt ngang lưng đồi, đây cũng là con đường quen thuộc mà tôi thường hay đi dạo vào mỗi buổi chiều sau giờ cơm.

Phòng của tôi “tọa lạc” tại tầng 5 của ký túc xá. Nếu không chê thì đây là nơi lý tưởng nhất cho những ai có tâm hồn thi sỹ (đáng tiếc tôi không phải là thi sỹ).

Mỗi buổi sáng trước khi mặt trời thức giấc thì tiếng chim đã báo giờ để gọi tôi dậy. Không hiểu sao tất cả các loài chim từ quạ đen, sáo, chim ưng cho đến những loài chim đuôi dài màu sắc sặc sỡ cứ tụ họp trước phòng tôi mà hót tíu tít. Chắc có lẽ chúng có thần thông và biết được tôi là “con ma tham ngủ”.

Tôi có thể ngủ cả ngày, hoặc nằm lì trên giường (nhất là vào mùa đông) mà không cảm thấy đói, nhưng nếu không nhờ mấy con chim này thì trong kiếp sau nếu được tái sanh chắc tôi sẽ là một con rắn hay là một con vật nào đó mà suốt ngày chỉ ngủ và chết cũng vì ham ngủ.

Nói vậy chứ thật ra thời gian đầu tôi cũng không mấy làm vui vẻ gì vì cứ vào mỗi buổi sáng lại phải bị làm phiền, từ bỏ cái thành phố ồn ào để tìm nơi yên tĩnh, nhưng lại chẳng được yên cũng vì tiếng hót của mấy con chim. Lắm lúc bực mình tự hỏi liệu mình có thể tìm một nơi khác yên tĩnh hơn chăng? Nhưng rồi nghĩ lại tôi phát hiện ra rằng yên hay không là ở trong tâm mình, nếu tâm mình yên thì vạn vật đều yên dù mình đang ở giữa chợ đông người, nếu tâm đã không yên thì có trốn vào tận hang sâu thì vẫn không được bình yên. Lúc này tôi mới hiểu thế nào là câu “vạn vật do tâm tạo, tâm an thì vạn cảnh an, tâm loạn thì vạn cảnh loạn”.

Cũng thế, do tâm luôn bị dao động bởi “tám ngọn gió của thế gian” (lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc) nên có biết bao điều thống khổ xảy ra. Con người không những khổ thân vì bị quy luật sanh già bệnh chết chi phối, tâm của họ lại càng khổ hơn vì luôn bị tám ngọn gió kia lay động, nếu đã rơi vào một trong tám ngọn gió này thì dù có đi vào tận đáy đại dương vẫn không thể nào yên ổn được.

Vậy tại sao mình không an nhiên chấp nhận cuộc sống hiện tại? Tôi nghĩ như thế.

Mình cũng bị ngọn gió “tham” của thế gian ngự trị đó là tham ngủ, sao mình không tự tiết chế cơ thể để ngủ có giờ giấc, chỉ vì một vài tiếng hót của các con chim kia mà cũng làm cho mình thấy khó chịu, ở đây có phải vì mình ghét tiếng chim hót hay là mình bảo thủ cái tham ngủ của mình, mình đang nuôi lớn cái mầm vô minh? Tại sao mình không biết quán chiếu để thấy rằng những con chim kia chính là những vị Bồ-tát thị hiện, và tiếng hót của chúng chính là pháp âm vi diệu đánh tan vô minh tham ngủ của mình, vậy mình nên mang ơn các con chim mới đúng.

Thật vậy, sau khi tư duy và chiêm nghiệm về sự việc này tôi nhận ra rằng tự thân mình biết an ổn thì vạn vật chung quanh đều an ổn. Vạn pháp đều là Phật pháp; ngay trong đời “Ngũ trược” này, chúng ta vẫn luôn gặp được các vị thiện tri thức hiện thân dưới nhiều hình thức khác nhau. Điều này làm cho tôi liên tưởng đến đoạn kinh:

“Có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe,
Nghe rồi tỏ đạo Bồ-đề…”

Vậy thế gian này cũng là Cực Lạc, đâu cần phải đi đến Tây phương, nếu ngay nơi thế gian này mà không liễu ngộ được yếu chỉ quan trọng của kinh A-di-đà, không gieo mầm an lạc ngay giờ phút hiện tại bằng cách thiết tha trì niệm lục tự A-di-đà và quán chiếu về cảnh giới Cực Lạc đồng thời hoà nhập cảnh giới Cực Lạc trong kinh vào đời sống thường ngày thì dù có về đến Tây phương cũng vẫn thấy bất an. Tiếng chim hót hằng ngày, tiếng lá rừng rơi xào xạc… tất cả chính là pháp âm vi diệu nơi Tây phương Tịnh độ, tất cả đều hiện hữu nơi cõi Ta-bà này, nếu trong tâm thường nghĩ về Cực Lạc.

Mọi người đều nói rằng cõi Ta-bà là uế trược, cũng như trước kia tôi cho rằng thủ đô New Delhi là ồn ào không thích hợp rồi quyết định bỏ phố lên rừng để tìm một nơi vắng vẻ yên lành, nhưng tôi ra đi với một tâm trạng không yên tịnh, để khi lên đến đây mặc dù không có nhiều người cũng không có tiếng xe ồn ào nhưng lại bị tiếng chim rừng quấy phá, và nếu tôi không có được lời chỉ bảo của Phật pháp và không biết quán xét để thấy các pháp đều là Phật pháp thì dù có về bên cạnh Phật A-di-đà tôi cũng vẫn thấy không yên bình.

Kể từ sau lần đó, mỗi buổi sáng khi nghe tiếng chim tíu tít gọi nhau, tôi tỉnh ngủ, mặc dù chưa bước xuống giường (vì thời tiết rất lạnh), song tôi vô cùng hân hoan khi nghĩ đây chính là bài pháp thoại đầu tiên trong ngày mà tôi thật sự diễm phúc đón nhận. Và đây cũng chính là lời động viên, nhắc nhở lớn lao và duy nhất củng cố tinh thần để tôi đi tiếp con đường mình đã chọn.

Tôi thầm cầu nguyện và ước mong cho thế giới được an bình. Và nếu muốn vậy thì trong tâm của tôi và tâm của tất cả mọi người phải thực sự an bình, chất liệu an bình này không đến từ một nơi xa xôi nào khác mà nó lưu xuất từ trong nội tâm và hiện hữu giữa đời sống hằng ngày. Gửi đến tất cả những ai có duyên khi đọc câu chuyện vui này vài dòng thơ ngắn mà thầy tôi đã từng dạy:

“Ngủ nhiều thêm si ám,
Làm giảm mất công phu,
Người học Phật thật tu,
Phải ngủ có giờ giấc,
Dù cho được hay mất,
Ca tụng hay khiển trách,
Lòng ta chẳng bao giờ,
Xôn xao hoặc lay chuyển
…”

(trích trong Thi ca niệm Phật)
Cầu chúc tất cả có một ngày mới an lành.

Tâm Hòa
[Tập san Pháp Luân – số 58, tr.88, 2009]

Ảnh: sarah.instituteofbuddhistdialectics.org

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận