Vài kỷ niệm nhỏ với thầy Tuệ Sỹ

VÀI KỶ NIỆM NHỎ VỚI THẦY TUỆ SỸ

Người dắt kẻ hèn kiêm Cô Huy Đà lạt tới thăm thầy Tuệ Sỹ lần đầu tiên là nhà văn Nguyễn Đạt. Đó là thời điểm vào năm khoảng 2005 ( kẻ hèn không chắc lắm về thời gian, chỉ nhớ khi ấy, thầy Tuệ Sỹ vẫn còn bị quản thúc tại chùa Già Lam). Kẻ hèn để ý, khi hắn và Nguyễn Đạt bước vào cửa chùa, ở phía trước cổng luôn có khoảng 4, 5 thanh niên ngồi café đọc báo. Nguyễn Đạt bảo kẻ hèn, kệ, cứ vào đi, gửi xe ở đấy. Thế là đi vào.

Thầy Tuệ Sỹ ở tít phía trong chùa, trong một căn gác nhỏ có hai buồng đơn sơ, phía ngoài là một balcony nhìn xuống khoảng sân dưới-một khu vườn nhỏ sau chùa. Trong khu vườn ấy, kẻ hèn nhớ, có một hai cây cổ thụ lớn tỏa bóng xuống cái balcony – là nơi thầy Tuệ Sỹ tiếp khách.

Bất cứ khi nào có khách, thầy Tuệ Sỹ, dù đang làm việc gì, ăn uống chẳng hạn, luôn dẹp ngay lại các việc đang làm để đón khách. Nhân đây, kẻ hèn thấy phục vụ cho thầy là một Phật Tử cũng đã trọng tuổi – có khuôn mặt rất khiêm nhường ( mà sau này, hắn thấy rất giống – ở cái dáng vẻ tinh thần – với cậu thư ký của thầy Bùi Văn Nam Sơn, người mà thầy nói vui là” tôn giả Anan của thầy”, và là người, cũng theo thầy ” thuộc làu-có thể đọc xuôi đọc ngược mấy cuốn Phê Phán Lý Tính Thuần Túy, Phê Phán Năng Lực phán Đoán, Phê Phán Lý Tính Thực hành)

Ấn tượng thứ nhất kẻ hèn kiêm cô Huy Đà lạt thấy ở thầy Tuệ Sỹ là đôi mắt cực sáng, và bởi vẻ gầy gò của thầy, cái hốc mắt sâu còn làm cho đôi đồng tử sáng rực ấy càng lộ ra thêm

Ấn tượng thứ hai của kẻ hèn về thầy Tuệ Sỹ là cái cười của thầy. Nói thật sự, kẻ hèn ít khi thấy ai có một cái cười hiền lành như thế. Đó là 1 cái cười, không hề rạng rỡ, tỏa chiếu ra ngoài mà là một cái cười quấn quít vào trong, với giọng cười khẽ nức lên từ trong tâm, hơi e thẹn thì phải-theo kiểu hai cậu học trò ngoan khoảng trên dưới 10 tuổi đang đùa nhau điều gì và rất lấy làm thích thú. Đó là một cái cười-hẳn nếu ai có máu diễn giải, sẽ nói là, thoát tục lụy, hay nhi hóa. Một cái cười làm cho người đối diện thấy nhẹ lòng và vui lây lập tức – cái cười sảng khoái của một kẻ có máu buồn mà chỉ ai cù nhẹ đã rúc rích cười nấc và làm cho mọi người cảm thấy an toàn- không phải sự an toàn như kiểu người ta thường nói hay mô tả về nụ cười an nhiên vĩnh cửu của Đức Phật, hay nụ cười lĩnh hội rạng rỡ hạnh phúc của Kasipa ( những cách nói hay mô tả đều ít nhiều có tính giáo dục) mà là một kiểu cười hồn nhiên như lá rụng trước gió, như gió thoảng qua mặt hồ nước và làm rung tỏa lên các gợn sóng nhẹ và hiền. Nếu cứ liên hệ với những năm ở trong tù và một lệnh tử hình được xóa vào phút cuối, cái cười này thật là lạ lùng (hay không lạ lùng chi hết? )

Có một lần, kẻ hèn dẫn một chàng thi sỹ trẻ, – thuộc lứa 8x tới thăm thầy .Khi đến chơi, kẻ hèn mau mắn giới thiệu, hôm nay đưa hai thế hệ đến gặp nhau, thế hệ @ và thế hệ lưng còng, thầy Tuệ Sỹ cười, và chỉnh luôn, “thế hệ @ và thế hệ “chân còng” chứ nhỉ”. Phải mất vài giây sau kẻ hèn mới nhận ra cái ẩn ý vui/buồn đấy của Thầy (Thầy từng bị biệt giam, còng chân)

Một lần khác, đến chơi, nói chuyện về âm nhạc, thầy có 1 ý kiến là so với Beethoven, thì thầy nghe Chopin không vào mấy, và nhạc Beethoven, nhất là mấy chục Sonatas cho Piano viết về cuối đời mới là những thứ tinh túy, bản thân thầy cũng chơi rất tốt bản Sonata Ánh Trăng của Bethooven. Mà thầy kể nhiều khi phải tập chay-không có đàn, – phải vẽ phím ra rồi tập.

Một lần nữa, tới chơi với thầy, anh Nguyễn Đạt dắt theo một cậu con trai. Cậu này nhỏ, khoảng 17, 18, học về IT, mà theo anh Nguyễn Đạt, có nhiều tư duy rất lạ. Và không phải chờ lâu, ngay trong buổi nói chuyện uống trà đó, cậu ấy đã chứng tỏ cái tư duy lạ của cậu ấy bằng việc hỏi thầy Tuệ Sỹ 2 câu, câu thứ nhất” Thầy có tin vào Phật không? “, và câu thứ hai “ Có lẽ Phật cũng không rõ hẳn về những điều ngài nói” ( hay câu gì đại loại thế – thắc mắc về một vấn đề gì kiểu bất khả tư nghì của Đức Phật). Khi nghe hai câu hỏi ấy, kẻ hèn nhìn sang thầy Tuệ Sỹ, lúc đó đang ngồi phía bên kia, tựa vào cái lan can, thấy thầy chăm chú nghe, và có vẻ như, cứ co lại như kiểu tránh tránh một cái gì mạnh mẽ, hay môt tiếng ồn quá to. Sau đó, thầy trả lời, với vẻ rất chăm chú, cân nhắc và nghiêm túc, là: ” bảo tôi có tin không, thì tôi tin đấy, thế nhưng đòi hỏi chứng minh thì tôi không chứng minh được. lẽ dĩ nhiên nếu người hỏi là một người khác, chẳng hạn một bà già trầu phật Tử, hỏi với cái tâm muốn biết thực sự, với băn khoăn thật sự, thì tôi trả lời ngay được, nhưng anh hỏi thế, thì tôi cũng cố gắng trả lời được thế thôi, tin thì tôi tin, nhưng mà nếu anh bắt chứng minh thì tôi không chứng minh cho anh được”. Còn câu hỏi thứ hai, thầy bảo, đại loại,” thật ra thì, bản thân chúng ta, cũng chả nên phán xét Đức Phật thấu hiểu hay không thấu hiểu điều gì, bởi lẽ, ngài như thể đại bàng vậy, còn chúng ta là chim sẽ, thế nên rất khó để dùng trí tuệ chim sẽ để đoán định nổi đường bay của đại bàng”

Hồi đó, cứ thỉnh thoảng kẻ hèn lại xuống chơi, nói đủ thứ chuyện, chuyện về Nguyễn Đức Sơn, chuyện về Bùi Giáng, có lần, kẻ hèn kể thầy nghe, câu thơ đầu tiên hắn đọc của Bùi Giáng làm hắn đã bị chinh phục ngay ( kẻ hèn nhớ hắn đọc trên kiến thức ngày nay thì phải, rất lâu rồi), thầy hỏi câu nào, hắn bảo câu: “ Buồn phố thị cũng xa bay như gió/Cộ xe nhiều cũng nhảy bổng như hươu/bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó/Lối đào nguyên anh khoác áo khinh cừu”. thế là thầy cười và bảo, đấy cũng là một trong những câu thơ của Bùi Giáng thầy thích nhất.

Sau đận ấy, hình như kẻ hèn cũng đi nước ngoài vài tháng, rồi khi về SG, cũng không mấy có dịp xuống thăm thầy, cũng nghe nói thầy đã hết bị quản thúc. Cũng có lần kẻ hèn gọi điện cho anh Nguyễn Đạt định rủ anh tới thăm thầy, thế nhưng rồi cả hai anh em đều bận – nói theo ngôn ngữ nhà phật là duyên chưa tụ.

Chuyện chỉ có vậy thôi.

Kính thư
Cô Huy Đà lạt

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest

1 Comment
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nguyễn Nhân
Nguyễn Nhân
10 tháng trước

Về câu hỏi :1/ Thầy có tin Phật không? là câu hỏi về lý tính của đạo Phật tức là chúng sanh có Phật tính không.Đây là triết lý căn cốt của PG mà tất cả kinh luật luận đều quy về .Kinh Pháp Hoa nói rất rõ về Phật tính ,đó là TRI KIẾN PHẬT.Khi trả lời choai đó thắc mắc về tính Phật thì người hiểu đạo phải tùy căn căn cơ mà trả lời cho họ hiểu.Tức là “phá châp” tùy người .2/ Về câu thứ hai “ Có lẽ Phật cũng không rõ hẳn về những điều ngài nói”.Câu hỏi này nếu xuất phát từ một người có trình độ tri thức chung và PG nói riêng thì chứng tỏ không hiểu gì về PG cả mà vô tình coi thường lời dạy của Đức Phật.Tôi hy vọng đây chỉ là câu tường thuật lại sai cái ý chính của người hỏi.Còn nếu quả thật người hỏi hàm ý như vậy thì nếu tôi là TS Tuệ sĩ toisex có lời khuyên khác.